Giảng Văn - Nắm Bắt Tinh Hoa Nghệ Thuật Văn Chương
Giải mã bí mật ẩn sâu trong áng văn
"Giảng văn là theo dõi trong nếp áng văn tất cả cái tinh vi về tư tưởng, cái độc đáo về nghệ thuật của một tác giả. Hiểu như vậy, giảng văn trước hết, là chỉ rõ sự thống nhất giữa hình thức và nội dung, giữa kĩ thuật và tư tưởng trong một tác phẩm văn chương." Lời khẳng định đầy sâu sắc của GS. Đặng Thai Mai đã khái quát trọn vẹn bản chất của giảng văn. Giảng văn không đơn thuần là trình bày nội dung tác phẩm, mà là một hành trình khám phá, soi rọi những giá trị tinh thần ẩn sâu bên trong dòng chữ.
Hành trình khám phá thế giới nghệ thuật
Giảng văn là nghệ thuật phân tích, giải mã những ẩn dụ, những tầng nghĩa sâu xa, những kỹ thuật độc đáo mà tác giả sử dụng để tạo nên một tác phẩm văn chương độc đáo. Nó là một cuộc đối thoại giữa người giảng và người đọc, giúp người đọc hiểu rõ hơn ý đồ của tác giả, trải nghiệm tinh hoa nghệ thuật và thấu hiểu sức mạnh của ngôn ngữ.
Nâng cao trình độ thẩm mỹ và kỹ năng phân tích
Thông qua giảng văn, người đọc được tiếp cận với những kiến thức văn học chuyên sâu, nâng cao trình độ thẩm mỹ, phát triển kỹ năng phân tích và hiểu sâu sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm văn học. Giảng văn không chỉ là con đường dẫn dắt đến sự thưởng thức văn học mà còn là cơ hội để người đọc phát triển tư duy phê bình và nâng cao trình độ hiểu biết về văn học.
Kết luận
Giảng văn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc tiếp cận và khám phá thế giới văn học. Nó là một nghệ thuật đòi hỏi sự tinh tế, sâu sắc và sự thấu hiểu tinh thần của tác phẩm. Giảng văn không chỉ giúp người đọc thưởng thức văn học mà còn là cơ hội để nâng cao trình độ thẩm mỹ và kỹ năng phân tích, góp phần làm giàu trí tuệ và tâm hồn của con người.
Kinh nghiệm và Giáo dục: Suy ngẫm về bản chất của giáo dục
Giới thiệu
Kinh nghiệm và Giáo dục (Experience and Education) là tác phẩm được xuất bản năm 1938 của John Dewey, một trong những nhà triết học và nhà giáo dục có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20. Cuốn sách phản ánh những vấn đề tranh cãi đang chia rẽ nền giáo dục Mỹ vào thời điểm đó, đồng thời đưa ra những lời khuyên sâu sắc về cách thức giáo dục có thể giúp một quốc gia vượt qua những thách thức của sự thay đổi xã hội.
Bối cảnh lịch sử: Cuộc cách mạng giáo dục và sự bế tắc
Trong vòng chưa đầy 50 năm, từ năm 1840 đến 1883, tỷ lệ trẻ em đến trường tại Mỹ đã tăng vọt 520%. Sự thay đổi này đánh dấu một cuộc cách mạng giáo dục chưa từng có, khi mà giáo dục trở thành nghĩa vụ của tất cả công dân. Tuy nhiên, hệ thống giáo dục truyền thống lại tỏ ra bất lực trong việc thích nghi với những thay đổi chóng mặt của xã hội.
Bước vào thế kỷ 20, nước Mỹ trải qua một giai đoạn phát triển kinh tế bùng nổ, được gọi là Kỷ nguyên Tiến bộ. Cách mạng công nghiệp đã thay đổi hoàn toàn đời sống xã hội và tâm lý con người. Trong khi đất nước sôi sục với những phát minh và đổi mới, nhà trường lại như kẻ đi dạo, bàng quan với những biến đổi này.
Lạc hậu của giáo dục truyền thống: Cái bẫy của những "chân lý vĩnh cửu"
Thậm chí ngay cả những trí thức uyên bác nhất thời bấy giờ cũng không nhận ra sự lạc hậu của nền giáo dục truyền thống. Nhà triết học Mortimer J. Adler, một người bạn đồng nghiệp của John Dewey tại Đại học Columbia, vẫn say sưa với những "chân lý vĩnh cửu" và "giá trị vĩnh cửu" tách rời khỏi cuộc sống thực tế.
Hệ quả là nhà trường tiếp tục duy trì lối dạy nhồi nhét, áp đặt, trong khi học sinh thụ động tiếp thu kiến thức một cách máy móc.
Tân-giáo dục: Một làn sóng đổi mới
Vào những năm cuối thế kỷ 19, một trào lưu cải cách giáo dục mới nổi lên ở Mỹ, gọi là tân-giáo dục (progressive education). Tân-giáo dục được xem như một sự đoạn tuyệt với triết lý giáo dục truyền thống và là tiền đề cho sự phát triển của giáo dục tiến bộ sau này.
John Dewey, với tư tưởng hành dụng (pragmatism) và công cụ luận (instrumentalism), được xem là cha đẻ của trào lưu tân-giáo dục. Ông tin rằng giáo dục là một quá trình tham gia của cá nhân vào ý thức của nhân loại, và nhà trường nên trở thành một hình thái của đời sống cộng đồng, nơi trẻ em tự do khám phá, học hỏi và phát triển.
"Kinh nghiệm và Giáo dục": Giáo dục là gì và làm thế nào để thực hiện?
Kinh nghiệm và Giáo dục là lời khẳng định cho tầm quan trọng của kinh nghiệm trong giáo dục. John Dewey cho rằng giáo dục không phải là một quá trình thu thập kiến thức thụ động, mà là một quá trình hoạt động, trải nghiệm và sáng tạo.
Cuốn sách chỉ ra những hạn chế của phương pháp dạy học truyền thống và đề xuất một cách tiếp cận giáo dục mới, tập trung vào việc phát triển toàn diện cá nhân. John Dewey nhấn mạnh vai trò của học sinh trong việc chủ động tìm kiếm kiến thức, sử dụng các giác quan và tư duy để khám phá thế giới xung quanh.
Di sản của John Dewey: Một lời nhắc nhở cho giáo dục hiện đại
Gần một trăm năm đã trôi qua, những tư tưởng của John Dewey trong Kinh nghiệm và Giáo dục vẫn có sức sống và đóng vai trò như một lời nhắc nhở cho giáo dục hiện đại.
Ngày nay, khi xã hội đang đối mặt với những thách thức mới, chúng ta cần nhìn nhận lại bản chất của giáo dục và tìm kiếm những cách thức mới để tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục.
Kinh nghiệm và Giáo dục là một tác phẩm giá trị, cung cấp những suy ngẫm sâu sắc về bản chất của giáo dục, đồng thời gợi mở những hướng đi mới cho sự phát triển của giáo dục trong tương lai.
Review sách
Kinh nghiệm và Giáo dục là một cuốn sách không chỉ dành cho các nhà giáo dục, mà còn là một tác phẩm cần đọc cho bất kỳ ai quan tâm đến sự phát triển của con người và xã hội. John Dewey đưa ra những phân tích sắc bén về những hạn chế của giáo dục truyền thống và đề xuất một cách tiếp cận giáo dục mới dựa trên kinh nghiệm và trải nghiệm.
Cuốn sách được viết theo phong cách giản dị, dễ hiểu, nhưng chứa đựng những tư tưởng sâu sắc và đầy tính thời sự. Những lời khuyên của John Dewey về vai trò của giáo dục trong việc phát triển cá nhân và xã hội vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay.
Kinh nghiệm và Giáo dục là một tác phẩm không chỉ có ý nghĩa về mặt lý thuyết, mà còn có tính ứng dụng cao trong thực tế. Cuốn sách là nguồn cảm hứng cho các nhà giáo dục, những người mong muốn thay đổi phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng giáo dục.
Thư Gửi Từ Miến Điện: Tiếng Lòng Của Một Nữ Anh Hùng
Thư Gửi Từ Miến Điện là tập hợp những bức thư đầy cảm xúc của Aung San Suu Kyi, được bà viết và gửi đăng trên tờ nhật báo Mainichi Shinbun của Nhật Bản từ tháng 11 năm 1995 đến cuối năm 1996. Đây là thời gian bà được phép tự do tương đối sau nhiều năm bị quản thúc.
Bức Tranh Về Miến Điện Qua Lòng Chữ
Cuốn sách là lời tâm tình của chính tác giả về đất nước và con người Miến Điện. Bà đưa độc giả đến với vùng đất xinh đẹp, trải qua các mùa trong năm, khám phá những lễ hội sôi động, và hòa mình vào những phong tục truyền thống đa sắc màu. Aung San Suu Kyi dành những lời ngợi ca cho những quân nhân dũng cảm, các học giả, diễn viên, và những người dân Miến Điện đã mạo hiểm mạng sống của mình để ủng hộ lý tưởng nhân dân được làm chủ, được quyền bình đẳng.
Tiếng Nói Cho Miến Điện Vươn Ra Thế Giới
Trong bối cảnh Miến Điện đang đối mặt với nhiều thách thức chính trị nội bộ, những bức thư này đã trở thành tiếng nói của Aung San Suu Kyi và hàng triệu người dân Miến Điện. Thông qua những dòng chữ chân thành, họ đã vượt qua biên giới quốc gia, đưa tiếng nói của mình đến với cộng đồng quốc tế đang quan tâm đến tình hình đất nước.
Cảm Nhận Về Nỗi Đau Và Hy Vọng
Những lá thư còn giúp độc giả hiểu rõ hơn những gì Aung San Suu Kyi phải đánh đổi khi đấu tranh cho tự do của Miến Điện. Từ những khó khăn, thử thách, và cả những nỗi đau mà bà đã phải trải qua, độc giả cảm nhận được tình yêu quê hương tha thiết đã giúp bà vững tin trên con đường đấu tranh ôn hòa.
Review Nội Dung Sách
Thư Gửi Từ Miến Điện là một tác phẩm đầy cảm xúc, mang đến cái nhìn sâu sắc về cuộc đấu tranh cho tự do và dân chủ của Aung San Suu Kyi. Những câu chữ giản dị nhưng chứa đựng nhiều thông điệp ý nghĩa về lòng yêu nước, tinh thần bất khuất, và niềm tin vào một tương lai tươi sáng cho Miến Điện. Cuốn sách là lời khích lệ mạnh mẽ cho những ai đang đấu tranh cho công lý và lẽ phải, đồng thời là minh chứng cho sức mạnh của tình yêu quê hương và lòng kiên định.
Nhiều bậc cha mẹ có cái tư tưởng phó mặc tự nhiên, mỗi khi thấy ai phàn nàn về sự kém cỏi của con cái, thường tặc lưỡi: " Chà! Trăng đến rằm, trăng tròn!".
Cái tư tưởng phóng nhiệm lầm lạc ấy gốc ở bộ óc đầy thiên kiến cũng có, nhưng ở tính biếng lười thì nhiều hơn.
Cũng có người hình như không quan tâm đến cái kết quả học tập của con cái. Chung quanh họ, chán vạn người đã làm nên giàu có, đã bước được lên những địa vị cao quý, trước kia có phải là những cậu học trò giỏi đâu. Có phải chính họ bây giờ được nên ông nọ ông kia mà xưa kia chẳng là những “vua zero” ở trong lớp là gì? Tuy nhiên họ chỉ là số ít đối với những người vui vẻ hay lo âu khi đưa mắt đọc tờ giấy báo cáo của học đường gửi đến nói về cái thành tích của con cái trong khoảng một tháng hay sáu tháng vừa qua. Còn biết bao nhiêu người muốn cho con học chóng giỏi, đã chính mình kèm con những buổi tối hay thuê thầy dạy thêm con ở nhà.
Còn những ông bố hay bà mẹ hay khoe con mình học giỏi với bạn há chẳng là những người thường để ý tới sự học của con ru? Lại còn biết bao nhiêu cậu học sinh thật là có chí mà học không thấy chóng tấn tới, chỉ vì không biết cách học tập hay đã học tập không phải đường. Cuốn sách nhỏ mọn này sở dĩ viết ra là để giúp các bậc cha mẹ thường săn sóc đến sự học của con cái, chăm lo cho chúng được chu đáo và nhờ thế mà được kết quả mau chóng và tốt đẹp hơn, cũng là để cung cho sự nhu cầu khẩn thiết của học sinh vậy. Chúng tôi không có cái tự phụ làm hướng đạo cho ai cả. Chúng tôi vẫn biết rằng cái thiên tư phú bẩm2 thường chiếm phần quan trọng trong việc học tập của thiếu niên và thanh niên. Nhưng chúng tôi lại thấy rằng cái công phu của người không phải là không có thể thay thế hay bù đập vào cái tài của hóa công3. Vì vậy, xét mình là người đã từng lăn lóc lâu năm trong nghề “gõ đầu trẻ” đã từng nghiên cứu về việc giáo dục nhi đồng và thanh niên, lại là chủ một gia đình đông con, chúng tôi đánh bạo đem bày ra đây những cái sở học và sở hành, gọi là giúp ích muôn một1 vào công cuộc giáo dục thanh niên – một vấn đề hiện đang được nhiều người chú ý. Chúng tôi không dám quả quyết rằng những điều chỉ dẫn của chúng tôi dưới đây có thể đem lại những kết quả hoàn toàn. Nhưng chúng tôi tin chắc rằng các điều ấy có thể giúp cho các bậc cha mẹ săn sóc đến con cái một cách hợp lí để khiến chúng đem toàn lực ra mà dùng vào việc học hành. Thật ra, như chúng tôi đã từng nhận thấy, có rất nhiều học sinh không thể để toàn lực vào việc học tập, mà phần lỗi lại không phải ở họ mà ở các bậc cha mẹ đã lười biếng cẩu thả vụng về, có khi mê muội nữa, trong việc giáo dục con cái, nên chúng không thể lợi dụng được tất cả các tài lực tiềm tàng. Nhưng chúng tôi đã nói trong cuốn Một nền giáo dục Việt Nam mới, giáo dục không những là một khoa học mà lại còn là một nghệ thuật nữa. Đã vậy, những người săn sóc đến việc giáo dục há chẳng nên biết đến những điều đã từng được nghiên cứu và đem thực hành ở các nước tiên tiến hay sao?
Nhưng cái dụng ý của chúng tôi không những là đem cống hiến các bậc cha mẹ và các thanh niên học sinh những điều thường thức thực tế về đủ các phương diện thể dục, trí dục và đức dục mà lại còn lo sao cho các điều thường thức ấy thích hợp với hoàn cảnh và trình độ sinh hoạt của người Việt Nam ta. Chúng tôi mong rằng, trong khi đem thực hành các điều ấy, các bậc làm cha mẹ thấy chỗ nào có khuyết điểm cần phải bổ túc, xin sẵn lòng chỉ giáo cho, chúng tôi rất lấy làm hoan nghênh.
Thái Phỉ
Là sách phê bình và lý luận văn học trong nhiều phạm vi khác nhau. Với những ý kiến mới lạ, riêng biệt, Đặng Anh Đào đưa người đọc tiếp cận sâu hơn, kỹ lưỡng hơn với các vấn đề văn học, và các đề tài mà tác giả đề cập không giới hạn trong một khuôn khổ bó hẹp, cụ thể: Kiếp luân hồi của Nguyễn Trãi qua Nguyễn Thị Lộ, Chuyển hóa và biến thái trong âm hưởng bài thơ Ông Đồ của Vũ Đình Liên, Những tiếng nói giao hòa trong ngôn ngữ Hồ Chí Minh, Cách mạng Pháp qua cảm nhận của nhà văn Việt Nam, Gió Đông gió Tây: ảnh hưởng và giao thoa trong văn học Việt Nam hiện đại...
Xứ Sở Những Cô Gái Đi Xe Máy Mặc Áo Khoác Hoa
Juli Zeh đã viết ra những quan sát của mình. Về cuộc sống xung quanh và về bản thân mình như một người Đức. Trong sách có những đoạn mô tả hài hước, so sánh cuộc sống ở hai đất nước mà tưởng chừng như hai thế giới khác nhau. Sau vài tuần, cô bắt đầu thấy quen thuộc và gần như hòa nhập với cuộc sống ở Việt Nam.
Jared Diamond là nhà khoa học - tác giả nổi tiếng trên Thế giới và cả Việt Nam trong nhiều năm qua. Ông từng đoạt giải Pulitzer với các tác phẩm mang tầm tri thức đặc biệt mà bất cứ ai quan tâm tới tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại cần phải đọc. Mỗi cuốn sách của Jared Diamond như một mảnh ghép cho bức tranh mà khi được hoàn thiện, nó sẽ cho phép chúng ta thấu suốt bản thân, cũng như nhìn rõ hành tinh mà tại đó, ta có quyền sinh sống…
Năm ngoái, tác phẩm mới nhất của ông “Upheaval” (xuất bản năm 2019) đã được Omega Plus phát hành tại Việt Nam ngay đúng dịp cả thế giới đang phải đối đầu với dịch bệnh hoành hành, với tên tiếng Việt là “Biến động: Các quốc gia ứng phó với khủng hoảng và thay đổi như thế nào?”
Trong năm nay, chúng tôi xuất bản lại cuốn sách đầu tiên của Jared Diamond có tựa đề là “Loài tinh tinh thứ ba: Sự tiến hóa và tương lai của loài người” đã từng được xuất bản lần đầu vào năm 1991, với thiết kế bìa và in ấn đồng bộ với 4 cuốn trước - hoàn thành trọn bộ 5 tác phẩm nổi bật về chủ đề lịch sử nhân loại của ông.
. Loài tinh tinh thứ ba: Sự tiến hoá và tương lai của loài người (xuất bản lần đầu năm 1991)
. Súng, vi trùng và thép: Định mệnh của các xã hội loài người (xuất bản lần đầu năm 1997)
. Sụp đổ: Các xã hội đã thất bại hay thành công như thế nào? (xuất bản lần đầu năm 2005)
. Thế giới cho đến ngày hôm qua: Chúng ta học được gì từ những xã hội truyền thống? (xuất bản lần đầu năm 2012)
. Biến Động: Các quốc gia ứng phó với khủng hoảng và thay đổi như thế nào? (xuất bản lần đầu năm 2019)
NỘI DUNG CHÍNH
Cuốn sách trình bày về các đặc điểm giúp phân biệt loài người và các loài động vật khác. Tác giả nhận thấy chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, con người đã có một bước tiến hóa nhảy vọt để trở thành giống loài thống trị thế giới.
Cấu trúc sách gồm 5 phần:
Phần I: Sự xuất hiện của con người từ hàng triệu năm cho tới trước khi xuất hiện nông nghiệp vào khoảng 10.000 năm trước. Các bằng chứng về xương, công cụ, và gen cung cấp những thông tin trực tiếp nhất về việc con người đã biến đổi thế nào từ một tổ tiên chung. 98% bộ gen của con người giống với tinh tinh, vậy thì 2% mã gen còn lại đóng vai trò ra sao đối với bước nhảy vọt vĩ đại của chúng ta.
Phần II: Tác giả trình bày về những biến đổi trong vòng đời con người, chúng có tầm quan trọng sống còn với sự phát triển ngôn ngữ và nghệ thuật. Có những điều được coi là hiển nhiên rằng con người vẫn nuôi con sau khi cai sữa, thay vì để chúng tự kiếm ăn; rằng hầu hết nam giới và nữ giới đều kết thành đôi; rằng phần lớn các bậc bố mẹ đều chăm sóc con cái; rằng nhiều người sống lâu cho tới tuổi ông bà; và rằng nữ giới đều trải qua thời kỳ mãn kinh. Những điều trên chỉ có ở con người và khác biệt so với các loài động vật có mối liên hệ mật thiết nhất với chúng ta. Đây là những sự biến đổi to lớn và rất quan trọng trong quá trình tiến hóa của con người.
Phần III: Tác giả nêu ra những đặc điểm văn hóa giúp phân biệt chúng ta với động vật: ngôn ngữ, nghệ thuật, công nghệ, và nông nghiệp. Có phải sự phát triển của chúng là điều tất yếu trong lịch sử sự sống trên Trái đất? Có phải trên các hành tinh khác ngoài không gian cũng có những sinh vật phát triển ở mức độ cao như chúng ta?
Phần IV: Tác giả bàn về xu hướng giết người ngoài nhóm của các nhóm người khác. Đặc điểm này có tiền lệ trực tiếp ở động vật – được gọi là mâu thuẫn giữa các cá thể và giữa các nhóm cạnh tranh, và có thể được giải quyết bằng hành động giết chóc trong nhiều loài kể cả chúng ta. Tính bài ngoại và sự cô lập sâu sắc vốn là nét đặc trưng của loài người trước khi các nhà nước chính trị xuất hiện khiến chúng ta bắt đầu đồng nhất hơn về văn hóa. Đã từng có một ngôn ngữ nguyên thủy là gốc gác của các ngôn ngữ hiện đại. Công nghệ, văn hóa, và địa lý đã ảnh hưởng tới kết cục của hai trong số các cuộc cạnh tranh nổi tiếng nhất trong lịch sử giữa các nhóm người. Những tư liệu lịch sử trên toàn thế giới về các cuộc thảm sát bài ngoại sẽ cho thấy việc quay lưng lại với lịch sử nhân loại đã khiến chúng ta tái phạm các sai lầm quá khứ ở mức độ còn nguy hiểm hơn
Phần V: Con người đã khá thành công trong việc thoát khỏi những sự kiểm soát trước đó về số lượng. Từ lâu, chúng ta đã tiêu diệt những thú dữ ăn thịt mình. Như nhiều loài thú dữ ăn tạp khác, chúng ta hủy hoại một số loại con mồi khi chúng ta xâm chiếm một môi trường mới hay có được sức mạnh hủy diệt mới, chúng ta có nguy cơ tự tiêu diệt bằng cách tiêu diệt nền tảng tài nguyên của mình. Các yếu tố môi trường cũng đem đến những biến đổi lớn trong nền văn minh phương Tây, bao gồm việc sụp đổ dây chuyền nền thống trị của Trung Đông, sau đó là Hy Lạp, rồi đến La Mã. Việc tự hủy diệt môi trường là một bước chuyển quan trọng trong lịch sử loài người. Cuộc tuyệt chủng lớn nhất, kịch tính nhất, và gây nhiều tranh cãi nhất là khoảng 11.000 năm trước đây, hầu hết những loài thú lớn của hai lục địa Bắc Mỹ và Nam Mỹ đã bị tuyệt chủng. Cùng khoảng thời gian đó xuất hiện bằng chứng đầu tiên không rõ ràng về sự xâm chiếm châu Mỹ của con người, do tổ tiên của thổ dân châu Mỹ thực hiện.
Tác phẩm từng đạt Giải thưởng sách khoa học của Hiệp hội Hoàng gia (Royal Society) và ở thời điểm ra mắt lần đầu tiên gần như là cuốn sách mới mẻ viết về đề tài này.
ĐÁNH GIÁ/NHẬN XÉT CHUYÊN GIA
“Mọi người sẽ thích thú khi đọc cuốn sách tuyệt vời này. Nó giúp chúng ta hiểu ý nghĩa của việc trở thành con người”. - Paul Ehrlich, Đại học Stanford
“Được viết với sự dí dỏm tuyệt vời. . . . cuốn sách buộc người ta phải suy ngẫm thấu đáo về sự tiến hóa của loài người. " - New York Times
TRÍCH ĐOẠN HAY
“Vậy là, khi người Maori đặt chân lên đất liền, họ đã tìm thấy một vùng sinh thái New Zealand còn nguyên vẹn với những sinh vật lạ lùng đến nỗi chúng ta sẽ nhầm chúng với các loài kỳ lạ trong khoa học viễn tưởng nếu chúng ta không có các mẫu xương hóa thạch để khẳng định sự tồn tại của chúng trước đây. Hình ảnh này gần giống với những gì mà chúng ta có thể sẽ trông thấy nếu đặt chân tới một hành tinh trù phú khác có sự sống tiến hóa. Trong một thời gian ngắn, nhiều loài trong cộng đồng đó đã sụp đổ bởi sự tàn sát về sinh học, và một số loài còn tồn tại trong cộng đồng ấy cũng đã suy sụp trong cuộc tàn sát thứ hai tiếp sau sự có mặt của người châu Âu. Kết quả cuối cùng là New Zealand ngày nay còn lại khoảng một nửa số loài chim đã từng chào đón người Maori, và nhiều loài còn sống sót trong đó giờ đây cũng đang đứng bên bờ vực tuyệt chủng hoặc thu hẹp trên một số đảo mà chỉ có một ít loài thú nuôi được đưa tới. Vài thế kỷ săn bắt đã đủ để kết thúc hàng triệu năm tồn tại trong lịch sử loài moa.
Không chỉ ở New Zealand mà trên tất cả những hòn đảo Thái Bình Dương xa xôi khác được các nhà khảo cổ học nghiên cứu gần đây, xương của nhiều loài chim hiện đã tuyệt chủng được tìm thấy ở những địa điểm có người đến cư trú đầu tiên, cũng chứng tỏ sự liên quan nào đó giữa sự tuyệt chủng của các loài chim và những cuộc thuộc địa hóa của con người. Từ tất cả những hòn đảo chính thuộc Hawaii, các nhà cổ sinh học Storrs Olson và Helen James thuộc Viện nghiên cứu Smithson đã nhận dạng được hóa thạch của các loài chim vốn đã biến mất trong quá trình định cư của người Polynesia bắt đầu từ khoảng năm 500. Những hóa thạch này bao gồm không chỉ mấy loài biết bò hút mật nhỏ bé có quan hệ với các loài còn tồn tại đến nay, mà còn có cả loài ngỗng và cò quăm kỳ dị không bay được chẳng có bất cứ họ hàng thân thuộc nào còn sống. Trong khi Hawaii tai tiếng vì sự tuyệt chủng của các loài chim sau khi người châu Âu xâm chiếm đảo, thì làn sóng tuyệt chủng sớm hơn này đã không được biết đến cho tới khi Olson và James bắt đầu công bố những phát hiện của họ vào năm 1982. Những cuộc tuyệt chủng được biết đến của các loài chim Hawaii trước khi Thuyền trưởng Cook tới đây hiện tổng cộng là một con số khó tưởng tượng nổi với ít nhất 50 loài, gần 1/10 số lượng các loài chim ở Bắc Mỹ.
Điều đó không nói lên rằng tất cả các loài chim Hawaii này đã bị săn bắt tới mức tuyệt chủng. Mặc dù ngỗng có lẽ đã thực sự bị tuyệt chủng vì nạn săn bắt quá mức, thì giống với loài moa, các loài chim nhỏ có lẽ đã bị tiêu diệt bởi lũ chuột tới đây cùng với các cư dân Hawaii đầu tiên, hay theo cách khác là do sự mất đi của những khu rừng mà người Hawaii đã chặt hạ để làm nông nghiệp. Những phát hiện tương tự về các loài chim bị tuyệt chủng ở những di chỉ khảo cổ của người Polynesia đầu tiên cũng được tìm thấy trên các đảo Tahiti, Fiji, Tonga, New Caledonia, và các quần đảo Marquesa, Chatham, Cook, Solomon, và Bismarck.”
“Một bí ẩn thoáng qua vẫn tồn tại ở đảo Phục Sinh kể từ khi đảo này và cư dân Polynesia trên đảo được nhà thám hiểm Hà Lan Jakob Roggeveen “phát hiện ra” vào năm 1722. Nằm ở Thái Bình Dương cách Chile 3.600 km về phía tây, đảo Phục Sinh thậm chí còn vượt qua đảo Henderson như là một trong những mảnh đất biệt lập nhất thế giới. Hàng trăm bức tượng, nặng tới 85 tấn và cao tới 12 mét, được đục đẽo từ các mỏ đá núi lửa, được vận chuyển vài cây số, và được dựng thẳng trên mấy chiếc bệ do những người không có tấc sắt hay bánh xe và không có nguồn sức mạnh nào khác ngoài cơ bắp thực hiện. Thậm chí tàn tích của nhiều bức tượng chưa được hoàn tất còn trong các mỏ, hay đã hoàn tất nhưng bị bỏ lại giữa các mỏ và những chiếc bệ. Quang cảnh ngày nay như thể những người thợ chạm khắc và những người di chuyển đột nhiên từ bỏ công việc, để lại một vùng đất yên lặng đến lạ lùng.
Khi Roggeveen đến đây, nhiều bức tượng vẫn còn đứng đó, mặc dù những bức tượng mới không còn được đục đẽo thêm nữa. Đến năm 1840, tất cả những bức tượng đứng thẳng đó đã bị đổ xuống có chủ ý bởi chính cư dân đảo Phục Sinh. Làm thế nào mà những bức tượng khổng lồ đến thế đã được vận chuyển và dựng lên, tại sao cuối cùng chúng đã bị kéo đổ xuống, và tại sao việc đục đẽo bị ngừng lại?
Câu hỏi đầu tiên đã được trả lời khi cư dân hiện sống trên đảo Phục Sinh chỉ cho Thor Heyerdahl cách thức mà tổ tiên họ đã sử dụng những khúc gỗ tròn như các con lăn để vận chuyển tượng và sau đó như các đòn bẩy để dựng chúng lên. Những câu hỏi khác thì được trả lời bằng các nghiên cứu cổ sinh học và khảo cổ học sau đó, hé lộ lịch sử khủng khiếp của Phục Sinh. Khi người Polynesia đặt chân lên Phục Sinh vào khoảng năm 400, hòn đảo đã được bao phủ bởi khu rừng mà họ đã dần đốn sạch, để trồng trọt và lấy những khúc gỗ tròn làm xuồng và nâng các bức tượng. Đến khoảng năm 1500, số dân trên đảo đã lên tới khoảng 7.000 (hơn 150 người trên 2,5 km2), khoảng 1.000 bức tượng đã được đục đẽo, và ít nhất 324 bức tượng trong đó đã được dựng lên. Nhưng, rừng đã bị phá hủy hoàn toàn đến mức không còn một cái cây nào sống sót.
Một kết quả tức thì của thảm họa sinh thái mà họ tự gây ra là dân đảo không còn một khúc gỗ nào dùng để vận chuyển và dựng tượng lên nữa, vì thế việc đục đẽo đã ngừng lại. Nhưng phá rừng cũng mang lại hai hậu quả gián tiếp dẫn tới nạn đói: xói mòn đất, do đó mùa màng thất bát, cộng với việc thiếu gỗ làm xuồng, vì thế thu được ít đạm có sẵn từ cá hơn. Kết quả là, dân số bấy giờ đã đông hơn khả năng cung cấp của Phục Sinh, và xã hội trên đảo sụp đổ trong sự hủy diệt của nội chiến và ăn thịt người. Một tầng lớp chiến binh đã tiếp quản, những ngọn giáo được sản xuất với số lượng lớn đã xuất hiện khắp trên đảo; bên thua trận bị ăn thịt hoặc trở thành nô lệ; các thị tộc đối thủ đã xô đổ các bức tượng của bên kia xuống; và con người sống trong hang động để tự vệ. Đó chính là điều đã xảy ra với một hòn đảo trù phú, nuôi dưỡng một trong những nền văn minh đáng chú ý nhất của thế giới, bị suy tàn thành đảo Phục Sinh ngày nay: chỉ còn lại một dải đất cằn cỗi đầy cỏ dại với các bức tượng đổ, và nuôi được chưa đến 1/3 dân số trước đây của nó.”
VỀ TÁC GIẢ
Jared Diamond (10/09/1937)
Giáo sư Địa lý học tại Đại học California, Los Angeles, Mỹ. Ông là một học giả nổi tiếng kiêm chuyên gia trong nhiều lĩnh vực, từ sinh thái học, điểu học cho tới nhân học. Các giải thưởng danh giá được trao cho ông bao gồm Huy chương Khoa học Quốc gia, Giải thưởng Cosmos Quốc tế của Nhật Bản, Giải thưởng Lewis Thomas do Đại học Rockefeller trao tặng, và đặc biệt là giải Pulitzer cho thể loại sách phi hư cấu năm 1998 với tác phẩm Súng, Vi trùng và Thép.
Bí Mật Sáng Chế Honda
Với kinh nghiệm 16 năm làm việc liên tiếp tại Trung tâm Nghiên cứu Kỹ thuật Honda, Kobayashi Saburo đã chia sẻ với bạn đọc con đường hiện thực hóa sản phẩm túi khí của mình, từ khi là ý tưởng cho tới khi được thương mại hóa vào năm 1987.
Honda đã đề xướng và duy trì triết lý và văn hóa riêng để tạo ra một môi trường thúc đẩy sáng tạo như: “Ba niềm vui”, “Tôn trọng con người”, “Waigaya”... Giống như khái niệm “waigaya” mà bạn đọc sẽ tìm hiểu qua từng trang sách, được coi là “con đường suy nghĩ dấn thân”, thì sáng tạo cũng vậy, một con đường dấn thân mà nếu không có tâm huyết và ý chí, người ta không thể vượt qua những kẻ ngáng đường, qua quãng thời gian dài làm người ta thoái chí cùng một tỉ lệ thành công thấp tới mức nản lòng, để đi tới tận cùng.
Bạn đọc sẽ được tiếp cận những khái niệm mới mẻ mà đúng hơn là hệ giá trị mới của Honda, trong đó đặt con người làm trung tâm cùng với trách nhiệm của doanh nghiệp trước trăn trở, công ty xe ô tô có thể cống hiến điều gì cho xã hội? Và quan điểm thú vị bất ngờ, coi sáng chế giống như tình yêu, phải vượt qua được lý luận thông thường để nâng lên một tầm mức mới, vượt xa cải tiến thường lệ, đem lại giá trị vượt trội, tiến vào một thế giới mà ta chưa từng biết đến.
Cuốn sách này đề cập hầu hết, nếu không phải tất cả, các câu hỏi mà chúng ta vẫn luôn đặt ra về cuộc sống và tình yêu, mục đích và chức năng, con người và các mối quan hệ, thiện và ác, mặc cảm và tội lỗi, tha thứ và cứu độ, đường đưa đến Thượng đế cũng như lối vào hoả ngục… tất tần tật mọi thứ. Nó cũng bàn đến các đề tài tính dục, quyền lực, tiền bạc, chuyện con cái, hôn nhân, ly dị, về sự nghiệp, sức khoẻ, về đời sau, đời trước… về mọi thứ. Nó phân tích chiến tranh và hoà bình, biết và không biết, cho và nhận, vui và buồn. Nó xem xét cái cụ thể và trừu tượng, hữu hình và vô hình, chân lý và phi chân lý.
Bạn có thể nói rằng cuốn sách này là “những lời mới nhất của Thượng đế về mọi sự”, dù có một số người sẽ cảm thấy khó chịu vì điều này. Nhất là nếu họ cho rằng Thượng đế đã ngưng nói từ 2.000 năm trước đây, hoặc nếu Thượng đế còn tiếp thụ thông truyền, Người sẽ chỉ làm điều đó với những bậc thánh nhân, hoặc với những người đã cầu nguyện trong vòng 30 năm, hay 20 năm, hay ít ra là 10 năm.
Sự thật, Thượng đế nói với tất cả mọi người. Người tốt cũng như kẻ xấu. Thánh nhân và kẻ gian tà. Và chắc chắn, Người nói chuyện với tất cả chúng ta, những người nằm giữa hai loại trên. Cứ lấy chính bạn làm thí dụ. Trogn đời bạn, Thượng đế đã đến với bạn bằn nhiều cách và cuốn sách này là một trong những cách ấy. Đã có khi nào bạn nghe câu châm ngôn này chưa: Hữu cầu vi sư? Cuốn sách này là thầy của chúng ta đấy.
Là một cuốn sách phi hư cấu và có đề tài tôn giáo, nhưng Đối Thoại Với Thượng Đế đã được dựng thành bộ phim nổi tiếng, còn tác giả của nó, Neale Donald Walsch, thì lừng danh khắp thế giới, thậm chí còn cả một blog cá nhân rất đông người xem. Từng ấy thông tin đã nó lên mức độ hấp dẫn của cuốn sách, nơi suy tư siêu hình được diễn giải bằng một giọng văn hài hước nhẹ nhõm nhưng không bất kính, và Thượng đế đáp lại lời một con người phàm tục bằng lối nói bình dị, gần gũi, nhiều khi bông đùa. Ý tưởng về tác phẩm hết sức đặc biệt này, như chính tác giả kể lại trong một lần trả lời phỏng vấn của Larry King trên kênh CNN, xuất phát từ một lần Walch viết một lá thư cho Thượng đế phàn nàn về cuộc đời không suôn sẻ của mình – cũng giống như tất cả chúng ta, luôn bị ám ảnh bởi một số câu hỏi cốt tử về cuộc sống hàng ngày…
- “Có thể là không nằm ngang hàng với Mười điều răn dạy hay Áo nghĩa thư, nhưng đối thoại với Thượng đế của Neale Donald Walsch, nơi ông tuyên bố mình có tương giao trực tiếp với Chúa, đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người với thông đệp về tình yêu, niềm hy vọng và tính nhất thể vũ trụ của mình” – LifePositive
- “Cốt yếu cuả những lời giảng của Walsch là sự tự do hoàn toàn trong việc mỗi người đi theo các trực giác và thiên hướng sâu sắc nhất, cao quý nhất của mình” – International Cultic Studies Association.
Vì Sao Con Tôi Không Thích Đến Trường?
“Vì sao con tôi không thích đến trường? của Precht là một cơ xưởng chất đầy những luận cứ vững chãi có thể làm mới lại khoa sư phạm của chúng ta.”
- Tuần báo FOCUS
Vì sao con tôi không thích đến trường? - mở đầu là phê phán kịch liệt, gọi đích danh “thảm họa giáo dục”, và có lẽ đã khiêu khích không chỉ nền giáo dục hiện thời của nước Đức, mà cả những nền giáo dục khác theo mô hình truyền thống đang có nhiều bất cập.
Vì sao con tôi không thích đến trường? tuy viết về giáo dục Đức, nhưng là thông điệp và gợi ý hữu ích cho cả các học sinh, thầy cô, cha mẹ, những người quản lý giáo dục ở ngoài nước Đức. Vừa xuất bản vào năm 2013, cuốn sách sinh động, cuốn hút và có tầm vóc trí tuệ về giáo dục của triết gia Richard David Precht đã trở thành bestseller, khuấy động một cuộc tranh luận sôi sục, như ngọn gió hứng khởi lay chuyển cả cánh rừng xưa cũ, nhen hy vọng về một nền giáo dục ưu việt hơn.
Đối với người đọc Việt Nam, trong tình trạng giáo dục vẫn đang điều chỉnh để hoàn thiện, qua cuốn sách và những tranh cãi của người Đức, chúng ta có thể thu nhận không ít kinh nghiệm để giải quyết các vấn đề của chính mình, với nhiều điểm khá tương đồng với nước Đức ở các cấp độ khác nhau
Mở Khóa Thành Công - Bí Quyết Để Luôn Tràn Đầy Động Lực Và Tự Tin Nhằm Đạt Được Thành Công Bạn Mơ Ước
- Nếu bạn muốn đạt được thành công và ý nghĩa hơn cho cuộc sống của bạn.
- Nếu bạn nghĩ rằng bạn xứng đáng nhận được nhiều hơn từ cuộc sống này
- Nếu bạn muốn có được công thức từ tác giả để đạt được bất kỳ mục tiêu nào mà bạn mong muốn
- Nếu bạn đã đọc hàng chục cuốn sách nhưng không ai đưa cho bạn giải pháp hoặc công thức thực tế.
- Nếu bạn đang mệt mỏi vì lãng phí tiền của bạn vào các cuộc hội thảo, khóa đào tạo mà không thực sự mang lại cho bạn bất cứ điều gì
Vậy thì cuốn sách này sẽ dành cho bạn.
Có thể coi cuốn sách này là một tập tài liệu chuyên môn về sức khỏe tâm thần, tâm lý học, nhưng không làm cho người đọc thấy hoảng sợ, vì lý thuyết được gắn với một tình huống nghiên cứu thực tiễn, điển hình.
Đồng thời đây cũng là tiếng nói của những công dân có chuyên môn, ý thức rất rõ về “trách nhiệm cảnh báo” của mình; nhưng lại bị kẹt giữa hai nghĩa vụ nghề nghiệp hoàn toàn đối lập nhau, và việc vi phạm bất cứ nghĩa vụ nào cũng khiến họ bị coi là hành xử thiếu đạo đức.
Thứ nhất, họ có nghĩa vụ im lặng về đánh giá của họ với bất kỳ ai nếu người đó chưa cho phép họ lên tiếng công khai. Thứ hai, họ có nghĩa vụ lên tiếng và thông báo cho những người khác nếu họ có cơ sở để tin rằng một người nào đó có thể gây nguy hiểm cho những người khác.
Nhân vật được đưa ra làm điển hình trong cuốn sách là Donald Trump, tổng thống đương nhiệm của Hoa Kỳ, vì những hành xử có vẻ bất thường của ông.
Tuy nhiên, tác giả Bandy X. Lee đã chỉ ra rằng, “điểm chính của cuốn sách này không phải là về ông Trump, mà về bối cảnh lớn hơn dẫn tới việc ông lên làm tổng thống, và về phần đông dân số mà ông gây được ảnh hưởng bởi vị thế của ông”.
Bà đã đặt ngược lại câu hỏi, rằng việc Donald Trump đắc cử tổng thống Mỹ không phải vấn đề, mà vấn đề nằm ở chính đám đông dân số đã bầu cho ông. Và, “Sự nổi lên của một cá nhân với những khiếm khuyết như thế tự nó nói lên tình trạng sức khỏe và sự thịnh vượng của quốc gia, và chúng ta có thể phản ứng thế nào: cải thiện nó hay làm nó suy yếu thêm nữa?”
“Không cuốn sách nào được xuất bản trong mùa thu này nguy hiểm hơn, quan trọng hơn và gây tranh cãi hơn cuốn sách này… sâu sắc, sáng tỏ và đầy lo lắng.”
- Bill Moyers
“Lập trường của các chuyên gia tâm thần học này cần đến lòng can đảm, và những kết luận của họ thật thuyết phục.”
- The Washington Post
"...Đọc ca dao Việt Nam, tức là chúng ta tìm cho chúng ta một cỗi rễ tinh thần - cái mà hiện nay mỗi người chúng ta đều có rất thấm thía, rất chặt chẽ trong mạch máu. Đọc ca dao chúng ta còn thấy sung sướng là có thể dựng lại được trong tưởng tượng cuộc sinh hoạt kinh tế xã hội của cha ông chúng ta từ ngàn xưa đến cận đại. Ca dao thật là một tài liệu tâm lý và xã hội học rất dồi dào vậy [...].
Viết quyển nghiên cứu này, tôi không dám có chủ ý gì khác hơn là thừa hưởng những công phu sáng kiến của các bậc đàn anh, thử trình bầy một cách thức hiệu nghiệm để dựng lại cái nhà tổ truyền đã tan rã kia. Tôi thử vẽ một bản đồ kiến trúc phỏng theo cái bản đồ của cố nhân mà ta đã vô ý để thất lạc đi..." (Trương Tửu)
Tại Kho Sách, chúng tôi tạo ra một không gian dành riêng cho những đam mê đọc sách, từ những người đam mê văn học đến những người muốn khám phá thế giới qua trang sách.