1. Trang Chủ
  2. ///

Nhà Xuất Bản NXB Văn hóa Văn nghệ

Tổng hợp sách của nhà xuất bản NXB Văn hóa Văn nghệ tại KhoSach.com.vn
ký ức đông dương (anh - việt - pháp) - bìa cứng

Ký ức Đông Dương: Việt Nam - Campuchia - Lào

Mémoires D’ Indochine: Vietnam - Cambodge - Laos

Memories of Indochina: Vietnam - Cambodia - Laos

 (Bản bìa cứng phổ thông)

Tác giả: Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp, Eric Bourdonneau, Philippe Lefailler, Michel Lorillard ; Nguyễn Thị Hiệp dịch tiếng Việt ; David Smith dịch tiếng Anh ; Olivier Tessier biên soạn ; Zac Herman hiệu đính

Ấn bản lần thứ nhất của Viện Viễn Đông Bác Cổ (EFEO) & Nhà xuất bản Magellan & Co, Paris, (Ký ức Việt Nam, 2013; Ký ức Lào,2015; Ký ức Campuchia, 2017) EFEO và Nhà xuất bản Magellan & Co giữ bản quyền.

“Ký ức Đông Dương: Việt Nam - Campuchia - Lào” hoàn thành in ấn vào tháng 6.2020 là bản in đầu tiên có 3 ngôn ngữ Anh - Pháp - Việt được ấn hành bởi sự phối hợp giữa NXB Văn hóa – Văn nghệ TP.HCM và Viện Viễn Đông Bác Cổ (EFEO) Pháp tại Việt Nam sau hơn hai năm bắt tay thực hiện.

* Phần đầu giới thiệu về lịch sử hình thành và những tư liệu quý giá qua thời gian được lưu trữ kỹ lưỡng bởi Viện Viễn Đông Bác Cổ (EFEO) Pháp qua những chuyển biến của lịch sử. Những hình ảnh khắc sâu trong tim, về khoảnh khắc trong quá khứ, xuyên suốt ở ba quốc gia Việt Nam - Campuchia – Lào. Các khung cảnh sẽ xuất hiện trước mắt bạn như… Ký ức Việt Nam: cận cảnh Đông Dương, con người và truyền thống; mỹ thuật và kiến trúc, Phật giáo, lễ hội và nghi thức tôn giáo. Ký ức Campuchia: Khoa học - Mỹ thuật - Chính trị, Đất - Nước, nghi lễ hoàng cung, nhà sư và chùa chiền, thế giới “tách biệt”, khám phá. Ký ức Lào: tự nhiên và văn hóa, con người và thiên nhiên, lễ hội và truyền thống, thực hành Phật giáo. Tổng hợp tương quan về đa sắc tộc…

“Vốn chú trọng lối tường thuật, các nhà nghiên cứu vào cuối thế kỷ thứ 19 thường thích mang theo bên mình một cuốn sổ ghi chép, mặc dù họ cũng đã quen với những bức vẽ kỹ thuật vốn là những hình ảnh duy nhất được chấp nhận in kèm với các bài tạp chí chuyên ngành. Họ mô tả các chi tiết thông qua những ký họa giản lược khi không thể phó thác việc này cho thợ vẽ phụ tá của Viện. Đây quả là một công việc khó khăn vì để vẽ bằng than cần phải có óc quan sát, hoa tay và đặc biệt là phải có thời gian. Việc sử dụng ảnh giúp vượt qua được những trở ngại này đồng thời thoát khỏi các chuẩn mực gò bó của hội họa để thể hiện thực tế với độ chính xác như mong muốn. Các nhà khảo cổ học và dân tộc học của Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp đã rất nhiệt tình ủng hộ và bảo vệ công cụ chụp ảnh mới này vì chuyên ngành mới của họ mang tính kỹ thuật và gắn liền với thực địa (cũng tương tự như các nhà địa lý và địa chất học nhưng với những lý do khác). Ảnh chụp khoảnh khắc cho phép lưu giữ lại một hoạt động, hiện tượng diễn ra trong chốc lát và khôi phục toàn bộ các chi tiết mà mắt thường có thể không ghi nhận kịp. Chẳng hạn như vạt áo bung lên của người H’Mông, một công đoạn khai quật cổ vật bị chôn vùi dưới lòng đất hay một công trình xây dựng của người Chăm có nguy cơ sắp biến mất. Ảnh sao chụp cho phép xếp sang bên cạnh một số chủ đề rồi tiếp tục nghiên cứu nó về sau, quay lại một chi tiết nào đó, so sánh chúng hoặc dùng làm cứ liệu”. - Ký ức Việt Nam - Cận cảnh phương Đông – Viện Viễn Đông Bác cổ pháp ở Việt Nam.

 

“Ba thập kỷ sau khi chuyển kinh đô từ Oudong về Phnom Penh, Phật viện Hoàng gia, chùa Preah Keo, bắt đầu được xây dựng bên cạnh hoàng cung vào năm 1892. Mối quan hệ giữa vua Norodom và chính quyền thuộc địa ngày càng căng thẳng vì chính quyền thuộc địa luôn tìm cách làm suy yếu quyền lực đế vương. Bức tượng vua cưỡi ngựa được dựng trước chùa Phật Ngọc là điểm nhấn, hình ảnh bảo hộ mới của vương triều, thể hiện đức vua mặc đồ chiến binh Pháp, chào kiểu nhà binh, đầu đội mũ lông vũ hai chỏm. Bức tượng này nổi tiếng vì phần thân được coi là của Napoléon III, chỉ thay thế phần đầu của đức vua. Từ khoảng giao thời giữa hai thế kỷ, hoàng gia có cái nhìn thù địch với chế độ Bảo hộ, vua Norodom là “Napoléon nhiệt đới” đang tiến lên, dưới sự bảo hộ của Preah Keo, để lấy lại tự do đã mất”.- Ký ức Campuchia - Nghi lễ hoàng cung

 

“Các bức ảnh là bằng chứng độc đáo làm toát lên cuộc sống êm đềm và giản dị ở Luang Prabang đầu thế kỷ 20. Trong những thập niên hai mươi, ba mươi của thế kỷ 20, các chuyến công tác ở Lào của EFEO rất hiếm khi được thực hiện ngay cả khi Viện vẫn còn rất nổi danh qua những ấn phẩm quan trọng như các nghiên cứu của Charles Robequain (1924-1926) (2), Suzanne Karpelès (1929-1933), Madeleine Colani (từ 1931-1935)(3) và Paul Lévy (1938-1940) hay những cuộc trùng tu của Louis Fombertaux (1929-1935). Những ảnh liệu còn lưu giữ chủ yếu liên quan đến cổ vật thời tiền sử hoặc những chi tiết về kỹ thuật xây dựng. Thời kỳ chuẩn bị và ngay sau đó là thời kỳ độc lập của Lào đi cùng với sự hồi sinh trong hoạt động của EFEO ở nước này. Một trụ sở của Viện được thành lập ở Viêng Chăn năm 1950 và tồn tại đến năm 1966. Henri Deydier (1922-1954) là thành viên phụ trách đầu tiên. Sự ra đi đột ngột do tai nạn khi ông mới 32 tuổi đã

chấm dứt nguyện ước của ông trong việc thực hiện một chương trình nghiên cứu táo bạo về tư liệu trong các tỉnh mà ông nhắm đến. Tuy nhiên, ông cũng đã có thời gian để kịp tập hợp một số dữ liệu thú vị về các bộ tộc người miền Bắc nước Lào. Một số lượng nhỏ ảnh liệu chụp vào năm 1953 và 1954 sau này mới được bổ sung vào các ghi chép thực địa của ông. Pierre-Bernard Lafont (1926-2008) người kế vị ông với tư cách là đại diện của EFEO ở vương quốc Lào sau độc lập đã tiếp tục một số nghiên cứu mà Henri Deydier khởi xướng”. - Ký ức Lào - Tự nhiên và văn hóa

-----

Giới thiệu:

Viện Viễn Đông Bác Cổ (EFEO) Pháp tại Việt Nam: 120 năm - Một lịch sử đồng hành.

Được thành lập ngày 20 tháng 1 năm 1900 tại Sài Gòn, Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp (EFEO) có nhiệm vụ thu thập, thống kê, bảo quản và phân tích các yếu tố văn hóa và di sản của lục địa Á châu. Ngay từ buổi sơ khai, chủ yếu là các trí thức Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng qua việc thực hiện các công trình của EFEO. Vốn thuộc tầng lớp trí thức và có kiến thức sâu rộng, họ đã hỗ trợ tích cực cho các đồng nghiệp người Pháp hiểu được văn hóa Việt Nam, và vì vậy, một cách tự nhiên, họ là những người thầy đầu tiên của một số đồng nghiệp Pháp. Lập trụ sở tại Hà Nội năm 1902, EFEO từ đó đến nay trường tồn cùng với thời gian giữa lòng Hà Nội ở nhiều địa điểm và cơ quan khác nhau: Bảo tàng Finot, nơi lưu giữ những bộ sưu tập của EFEO, được xây dựng năm 1926, nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam; Bảo tàng Blanchard de la Brosse nay là Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh v.v.

Ngoài ra còn phải kể đến một thư viện lớn của Viện đã được bàn giao cho Viện Thông tin Khoa học Xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.

Những năm tháng Đông Dương

Ngay sau khi thành lập tại Hà Nội, EFEO đã quan tâm tới các ngành xã hội nhân văn của Việt Nam xưa tỏa sáng bên cạnh văn minh Trung Hoa, từ lưu vực sông Hồng tới dãy Hoành Sơn phía Bắc và tới tận các vùng ở Thanh Hóa. Nguồn tư liệu thành văn dưới mọi hình thức, đặc biệt là thư tịch Hán Nôm đã trở thành tâm điểm của các chương trình bảo tồn và in rập đối với các loại tư liệu dễ bị hư hại nhất. Các nhà nghiên cứu Pháp và Việt Nam đã nghiên cứu với phương pháp khoa học về văn minh thư tịch, văn tự trong đó phải kể đến Nguyễn Văn Tố hay Raymond Deloustal, người đã có công trong việc làm sống dậy một quá khứ hào hùng, khai sáng ngành sử học cũng như nền tảng văn hóa xã hội của Việt Nam hiện đại.

Vào đầu thế kỷ 20, Henri Parmentier đã thể hiện sự quan tâm đối với khảo cổ học Chăm cổ và chính ông là người chỉ đạo những cuộc khai quật ở Mỹ Sơn, Đồng Dương và Chánh Lộ (1902-1904) và đã công bố công trình đồ sộ của mình

“Inventaire descriptif des monuments Cham de l’Annam” [Thống kê khảo tả những di tích Champa ở Trung Kỳ]. Chính từ đà này, ông đã sáng lập Bảo tàng điêu khắc Chăm - Đà Nẵng (1919). Trong những năm 1930, các cuộc khai quật được tiếp tục tại Tháp Mắm và Trà Kiệu dưới sự chỉ đạo của Jean-Yves Claeys.

Những công trình nghiên cứu của Louis Malleret đánh dấu cho một số nghiên cứu được thực hiện ở miền Nam Việt Nam. Sống tại Việt Nam trong một phần tư thế kỷ (1929-1957), chính Louis Malleret phát hiện ra thương điếm là bằng - 6 -chứng vật thể chứng minh sự tồn tại của Vương quốc Phù Nam. Các cuộc khai quật do ông chỉ đạo vào năm 1944 đã khám phá ra nền văn minh Óc Eo và làm nên công trình đồ sộ của ông: Khảo cổ học đồng bằng sông Cửu Long.

Song song với việc nghiên cứu thư tịch cổ và các cuộc khai quật khảo cổ, EFEO quan tâm tới các nghiên cứu văn hóa dân gian và di sản phi vật thể nhằm hiểu rõ hơn về không gian và môi trường của một nền văn minh vốn gắn với thực vật.

Làng được đặc biệt quan tâm nghiên cứu vì nó vừa là trung tâm của nền văn minh lúa nước, vừa là biểu tượng cho một quốc gia đa sắc tộc gắn kết trong khu vực Đông Nam Á.

Nhiều cuộc điều tra, khảo sát dân tộc học đầu tiên về các nhóm dân tộc trên bán đảo Đông Dương đã được các nhà nghiên cứu nghiệp dư thông tuệ - các thành viên thông tấn của Viện thực hiện. Có thể kể đến các binh sĩ, giáo viên hay các nhà truyền giáo, như cha Léopold Cadière, người sáng lập Hội Đô Thành Hiếu Cổ và tạp chí mang tên của Hội, những ấn phẩm của ông về tín ngưỡng và cuộc sống thường nhật của người Việt luôn là những tài liệu tham khảo không thể bỏ qua.

Ở EFEO, bộ môn dân tộc học đã được thành lập dưới sự chỉ đạo của Paul Lévy, ông tiếp nhận các chuyên gia về dân tộc học người Việt như Nguyễn Văn Huyên (sau này trở thành Bộ trưởng Bộ Giáo dục 1956-1975), Nguyễn Văn Khoan, Trần Văn Giáp, v.v.

Qua các chương trình khảo sát thực địa, họ đã dựng nên bản đồ dân tộc học ngôn ngữ đầu tiên của Đông Dương, hoàn thành vào năm 1941, công bố các cuốn từ điển và tập hợp được một phông ảnh liệu đồ sộ. Về sau còn có sự xuất hiện của những nhà nghiên cứu trẻ như Georges Condominas (1947), nhà ngôn ngữ học Georges Haudricourt (1948) hay cả Jean Boulbet (1966). Tất cả các học giả này đã góp phần tạo nền móng để ngành dân tộc học hiện đại của Việt Nam dựa vào đó để phát triển.

Năm 1957, việc di dời EFEO về Paris đã được thực hiện một cách rất hệ thống, EFEO đã chuyển giao với trách nhiệm cao nhất toàn bộ các khu nhà, bảo tàng và những bộ sưu tập mà EFEO đang sở hữu cho chính quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Những hoạt động của EFEO ở Việt Nam từ 25 năm nay

Chính sách mở cửa của Việt Nam đã cho phép thành lập một trung tâm EFEO mới tại Hà Nội năm 1993 và sau đó là trung tâm thứ hai tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2012, nằm trong hệ thống 18 trung tâm tại châu Á.(1)

Tiếp nối truyền thống nghiên cứu về Việt Nam xưa, ngay từ đầu những năm 1990, EFEO đã khởi xướng “Dự án xuất bản Thư mục và Tổng tập thác bản văn khắc Hán Nôm Việt Nam” do Philippe Papin điều phối với sự hợp tác của Viện Hán Nôm (VASS). Dự án này đã cho phép xuất bản, bảo tồn 22.000 thác bản văn bia do EFEO in rập từ 1911 đến 1954. Bộ Tổng tập đồ sộ này gồm 22 quyển. Ngoài ra còn có 12 tập thư mục mô tả chi tiết từng tấm bia. Đây chủ yếu là những tư liệu tồn tại từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 20 ở các làng xã miền Bắc, như văn tự công đức, hợp đồng cung tiến, phong tục tập quán, quy định về chợ búa, về những thỏa ước, giao kèo giúp chúng ta hiểu được cuộc sống thường nhật của nông thôn Việt Nam xưa.

Việc thu thập các bản thảo cổ bằng chữ viết của người Dao cũng đã được thực hiện với cùng một cách tiếp cận như trên để bảo tồn di sản chữ viết. Dự án này do Giám đốc Sở Văn hóa tỉnh Lào Cai, ông Trần Hữu Sơn, Philippe Le Failler (EFEO) và Bradley Davis (Trường Đại học Washington) thực hiện đã cho phép sưu tập được 14.000 văn bản viết tay, trong đó 1.000 văn bản đã được số hóa.

Nhưng giấy viết, dù được thực hiện trên nền chất liệu nào, cũng không phải là hình thức duy nhất được con người sử dụng để ghi lại thực tế cuộc sống hàng ngày hoặc các sự kiện quan trọng. Các hình khắc trên đá ở Sa Pa được tìm thấy ở trên sườn núi khu vực thung lũng thuộc tỉnh biên giới Lào Cai cho đến nay vẫn chưa biết tác giả của chúng là ai cũng như thời điểm ra đời chính xác của các hình khắc chạm này. Ta có thể phân biệt được những nét khắc hình người hoặc hình khắc các đồ vật lao động nông nghiệp thường nhật. Vào năm 2005, EFEO và tỉnh Lào Cai đã quyết định thực hiện việc thống kê có phương pháp các hình khắc đá này và nhờ đó đã ấn hành tập thư mục giới thiệu bãi đá có hình khắc cổ ở huyện Sa Pa và một nghiên cứu phân tích phong cách tranh khắc vào năm 2012.

Một lĩnh vực khác được Viện đặc biệt chú trọng là khảo cổ học. Trong số các chương trình được tiến hành từ 25 năm nay, có thể kể đến dự án nghiên cứu di chỉ khảo cổ Hoàng thành Thăng Long được khởi xướng vào tháng 12 năm 2002 đã huy động nhiều thành viên của Viện tham gia. Cũng chính trên diện tích một vài héc-ta này, trung tâm chính trị của Việt Nam đã được thiết lập từ hơn một thiên niên kỷ trước. Hợp tác khoa học giữa Trung tâm EFEO tại Hà Nội và Viện Khảo cổ đã khởi đầu, cùng với một số chương trình khác, việc thành lập bảo tàng khảo cổ mang tên Bảo tàng Hà Nội - nghìn năm Thăng Long.

Ở miền Trung, có một chương trình nghiên cứu về lịch sử xã hội miền Trung Việt Nam trong mối quan hệ văn hóa giữa Champa với Đại Việt và các dân tộc vùng cao. Năm 2005, việc phát hiện ra Trường lũy ở tỉnh Quảng Ngãi (dài 127km được người Kinh và người H’rê xây dựng vào năm 1819) đã giúp nhìn nhận lại vấn đề đồng nhất giữa các nhóm dân cư khác nhau trong vùng (thế kỷ 15 - thế kỷ 19) và các mối quan hệ trung tâm - ngoại vi.

Nghiên cứu về nông thôn luôn luôn có vị trí đặc biệt trong các công trình nghiên cứu của EFEO. Cần phải nói rằng trong vòng hơn một thế kỷ, những nghiên cứu về người nông dân Việt Nam ở một đất nước thuần nông đã nỗ lực xác định một hình mẫu về “làng truyền thống” được định hình như một không gian khép kín, tự cung tự cấp và có khả năng tự lập tự trị rất cao. Trong một nghiên cứu so sánh đã được triển khai thực hiện trong vòng bốn năm trên bốn ngôi làng thuộc châu thổ sông Hồng, thế giới nông thôn thể hiện một phương diện hoàn toàn khác khi nó được định vị dưới góc độ trao đổi, sự linh động về thiết chế cùng với những biến chuyển về không gian xã hội và chính trị.

Nỗ lực tìm hiểu về xã hội nông thôn Việt Nam đặt ra câu hỏi trọng tâm về mối quan hệ Nhà nước – Địa phương được xem xét dưới góc độ quản lý nước và thủy lợi mà sự hiện diện khắp nơi của nước tạo nên cảnh quan và thấm đẫm văn hóa nhân sinh. Các nghiên cứu đề cập đến quá khứ, qua các phân tích sự thay đổi chính sách thủy lợi của đồng bằng châu thổ sông Hồng (thế kỷ 12 đến thế kỷ 20), cũng như đề cập đến các phương thức hiện tại về quản lý nguồn nước ở lưu vực sông Đồng Nai và ở miền Nam.

Cuối cùng, trước khi kết thúc bài giới thiệu ngắn này, không thể bỏ qua các ấn phẩm của EFEO tại Việt Nam. Ấn phẩm được chia thành hai bộ danh mục (Thư viện Việt Nam và Tư liệu phục vụ cho nghiên cứu Lịch sử: 15 cuốn sách và 7 ấn phẩm điện tử) và bộ sưu tập sách đặc biệt (34 công trình). Từ năm 1993, 6 dự án xuất bản lớn đã được thực hiện trong đó có công trình in bằng ba ngôn ngữ, kèm chú giải tác phẩm của Henri Oger “Technique du Peuple Annamite” [Kỹ thuật của người An Nam], (1909), ấn phẩm trọn bộ “Địa chí thời vua Đồng Khánh” (306 bản đồ in màu) và ấn bản điện tử 120 số của tập san Những người bạn cố đô Huế.

OLIVIER TESSIER (EFEO)

Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp tại Việt Nam: 120 năm - Một lịch sử đồng hành.

sống không muộn phiền

Sống Không Muộn Phiền

Bạn có thể tìm thấy hạnh phúc thật sự trong một cuộc sống không màng đến vật chất và ham muốn trần tục. Tác giả là một bác sỹ y khoa, sau khi chứng kiến nhiều bệnh nhân ốm yếu đã nhận ra rằng càng ít ham muốn vật chất, càng tống khứ được những ham muốn trần tục sẽ càng làm cho bạn ít lo lắng, giúp bạn có cuộc sống tràn đầy hạnh phúc.

Cuốn sách đã được tái bản 07 lần ở Nhật với 117.000 bản in đã được bán.

ký ức đông dương: việt nam - campuchia - lào (việt - pháp - anh)

Ký Ức Đông Dương: Việt Nam - Campuchia - Lào (Việt - Pháp - Anh)

Kho tư liệu đồ sộ và sắp xếp khoa học của hầu hết dự án sưu tập, khảo sát và nghiên cứu do Viện Viễn đông Bác cổ (EFEO) Pháp trực tiếp thực hiện trong hơn 100 năm trở lại đây thường chứa đựng một sức hấp dẫn mãnh liệt đối với người yêu sách lẫn giới học thuật, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu thuộc lĩnh vực tại Việt Nam và quốc tế, đặc biệt ở mảng văn hóa - xã hội.

Trước đó, hồi năm 2017 và 2018, Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ TP.HCM đã phối hợp với Viện Viễn đông Bác cổ (EFEO) Pháp giới thiệu đến độc giả 2 tuyển tập sách: Lục Vân Tiên cổ tích truyện (bộ hai quyển, song ngữ) và Tranh dân gian Việt Nam. Hai tập sách này đã thu hút sự chú ý của người đọc trong và ngoài nước nhờ nội dung hấp dẫn, hình ảnh minh hoạt độc đáo, mang tính nghệ thuật cao.

Tính đến thời điểm hiện tại, Tranh dân gian Việt Nam là tập sách được đánh giá vào loại hiếm, được giới sưu tầm "săn mua" lại từ những chủ nhân sở hữu trước đó, dù số lượng bản in lên đến hàng ngàn bản.

Tiếp nối thành công từ sự hợp tác giữa hai bên, sau gần hai năm thỏa thuận tác quyền và nghiêm túc thực hiện công tác biên soạn - biên dịch, Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ TP.HCM cũng vừa giới thiệu đến công chúng tuyển tập “Ký ức Đông Dương: Việt Nam - Lào – Campuchia”.

Nét mới trong tập sách này không chỉ là sự tổng hợp, chắt lọc đầy tính khoa học và nghệ thuật của 3 tập sách đơn lẻ mà Viện Viễn đông Bác cổ (EFEO) Pháp từng ấn hành, xuất bản trước đó tại nước ngoài là Ký ức Việt Nam (2013), Ký ức Lào (2015) và Ký ức Campuchia (2017) trước đó vào một tập sách, mà còn ở việc nội dung đã được Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ TP.HCM dịch sang tiếng Việt và tiếng Anh so với bản Pháp ngữ của ấn phẩm gốc. Bằng cách này, các tác phẩm văn hóa dễ dàng tiếp cận hơn đến công chúng trong nước, và đặc biệt là "cầu nối" đến khách hàng là du khách quốc tế có dịp đến tham quan TP.HCM nói chung và Việt Nam nói riêng.

Phần đầu của tập sách giới thiệu về lịch sử hình thành và những tư liệu quý giá qua thời gian được lưu trữ kỹ lưỡng bởi Viện Viễn đông Bác cổ (EFEO) Pháp qua những chuyển biến của lịch sử. Những hình ảnh khắc sâu trong tim, về khoảnh khắc trong quá khứ, xuyên suốt ở ba quốc gia Việt Nam - Campuchia – Lào được tái hiện vô cùng sinh động, hiện thực qua từng trang sách, đó là Ký ức Việt Nam: cận cảnh Đông Dương, con người và truyền thống; mỹ thuật và kiến trúc, Phật giáo, lễ hội và nghi thức tôn giáo; Ký ức Campuchia: khoa học - mỹ thuật - chính trị, đất - nước, nghi lễ hoàng cung, nhà sư và chùa chiền, thế giới “tách biệt”, khám phá; và Ký ức Lào: tự nhiên và văn hóa, con người và thiên nhiên, lễ hội và truyền thống, thực hành phật giáo. Tổng hợp tương quan về đa sắc tộc….

Bên cạnh việc giới thiệu những tư liệu ảnh quý lưu trữ tại Viện Viễn Đông Bác Cổ phản ánh tự nhiên, văn hóa, con người, thiên nhiên, di sản… của Đông Dương, sách còn là sợi dây nối liền ký ức thông qua nét đẹp của phụ nữ Việt Nam khi ngược dòng thời gian trở về đầu thế kỷ 20… Nét đẹp đó là những nét sinh hoạt thường ngày, sự bình dị khi hoạt động mua bán, khi khoác lên mình những bộ trang phục truyền thống của từng dân tộc, hay hoạt động tín ngưỡng, hoặc những ánh mắt trẻ thơ không kém phần sâu lắng của các thiếu nữ…

thần đất - ông địa & thần tài

Thần Đất - Ông Địa & Thần Tài

Sự hình thành của đất, nói rộng ra là của núi non, gò nồng, ruộng rẫ là đối tượng phản ảnh trong hầu hết các thần thoại sáng thể, và rồi đất là nơi cư trú vả nuôi dưỡng muôn loài. Do đó, đất trở thành đối tượng sủng tin của con người.

Trong phần lớn ngôn ngữ, đất có nhiều từ chỉ định, phổ biến là nhất là hai từ, ví dụ: Thổ và Địa. Ở đây, Địa là tử chỉ đất với tư cách là địa lý, địa chính, tức chi một khu vực đất có giới hạn. Còn Thổ là từ chỉ thuộc tính bản thể của đất - gọi là Thổ đức. Nó là một nguyên tố trong bộ nhân nguyên tố ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, hoặc là một đại trong tứ đại: Đất, Nước, Lửa, Gió.

Chính từ đó việc thờ tự Thần Đất chủ vào hai tên lý cơ bản: một là, vị phúc thần bảo hộ cộng đồng cư dân thuộc một khu vực cụ thể; hai là, vị thần ban cho sự sung túc, thịnh vượng, tức chú vào tín lý phồn thực nói chung của đất

mâu tử: lý hoặc luận

Mâu Tử: Lý Hoặc Luận - Tiến sĩ Dương Ngọc Dũng (nghiên cứu và phiên dịch)

Mâu Tử (chữ Hán: 牟子) tên thật là Mâu Bác (牟博). Theo nhiều nhà nghiên cứu, thì ông là một trong số ít người đầu tiên ở nước ngoài đến Giao Châu (vùng đất miền Bắc Việt Nam ngày nay) tu học và khai truyền đạo Phật tại đây.

Trước tác nổi tiếng của Mâu Tử là cuốn Lý Hoặc Luận, viết bằng chữ Hán. Sách gồm 37 câu hỏi đáp giữa tác giả và những người theo Đạo Nho (chủ yếu) và Đạo Lão (số câu ít hơn, chỉ từ câu 29 trở đi).

"Tại Việt Nam người đầu tiên dịch trọn vẹn tác phẩm này là Lê Mạnh Thát. Là người tiên phong, ông khó tránh những sơ suất trong phiên dịch mà chúng tôi sẽ chỉ ra trong bản dịch này. Tại phương Tây, Paul Pelliot là người đầu tiên dịch trọn vẹn Lý hoặc luận sang tiếng Pháp, cũng như John Keenan dịch toàn bộ Lý hoặc luận sang tiếng Anh. Chúng tôi tham khảo một số bản dịch sang Trung văn (có sẵn trên mạng) nhưng hầu hết đều sai sót rất nhiều và không hề giải thích hay chú thích lý do tại sao lại dịch như vậy. Bản thân Mâu tử là người dùng nhiều từ cổ, cộng thêm hiện tượng sao chép nhiều lần, điều này gây khó khăn cho người dịch không ít, mặc dù ý nghĩa thì rất rõ ràng".

"Quan điểm của chúng tôi rất đơn giản và không "treo" vào quá nhiều sự kiện đòi hỏi được kiểm chứng. Nếu chấp nhận thời điểm sáng tác của Lý hoặc luận khoảng thế kỷ thứ 5 thì chẳng cần phải gắn nó với một truyền thống Phật giáo (như Pelliot và Lê Mạnh Thát) hay với một cuốn kinh (như Maspéro) vì vào thế kỷ thứ 5 tri thức Phật giáo chẳng còn xa lạ gì với Trung Quốc và mọi chi tiết liên quan đến Phật giáo trong tác phẩm Lý hoặc luận đòi hỏi phải được giải thích trên cơ sở phương pháp luận thông diễn tư tưởng Phật giáo của thời kỳ này, tức phương pháp "cách nghĩa" 格 義 mà Đạo An (314-385) và Huệ Viễn (334-416) là hai đại biểu nổi tiếng nhất". Đạo An là tăng sĩ Trung Quốc đầu tiên dùng "cách nghĩa" để giải thích tư tưởng Phật giáo. Huệ Viễn là người chủ trương "thần bất diệt luận" mà Mâu tử lập lại. Đây chính là phương pháp thuyên giải tư tưởng Phật Giáo của chính Mâu tử: dùng Nho giáo và Đạo giáo để giải thích Phật Giáo. Chúng tôi ủng hộ quan điểm cho rằng Lý hoặc luận ra đời vào thời gian này (cuối thế kỷ thứ 4 và đầu thế kỷ thứ 5)".

Thông Tin TS. Dương ngọc Dũng

TS. Dương ngọc Dũng sinh năm 1956, hiện là giảng viên khoa Quan hệ Quốc tế, trường Đại học KHoa học Xã hội và Nhân văn - TP.HCM.

Ông tốt nghiệp cử nhân Anh văn năm 1980, tốt nghiệp đại học Canberra (Úc) năm 1989, chuyên ngành giảng dạy tiếng Anh (Graduate Diploma). Tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Đông Á học tại Đại học Harvard (Mỹ) năm 1995, tốt nghiệp Tiến sĩ ngành Tôn giáo học tại Đại học Boston (Mỹ) năm 2001, tốt nghiệp MBA của United Business Institute (Bỉ) năm 2007.

Ngoài ra, ông từng giữ những vị trí quản lý cao cấp, đào tạo và tư vấn cho những tổ chức lớn như Samsung, LG Vina, Tổng lãnh sự Mỹ, Úc, New Zealand, Bộ Kế hoạch & Đầu Tư, Bộ Tài chánh, Đài truyền hình Việt Nam, Tổng lãnh sự Singapore.

Vào năm 2016, TS. Dương Ngọc Dũng đã hướng dẫn Tổng thống Hoa Kỳ - Barack Obama thăm chùa Ngọc Hoàng.

Các tác phẩm đã xuất bản:

Kinh dịch và cấu hình tư tưởng Trung Quốc (NXB Khoa học Xã hội, 1999)

Triết giáo Đông Phương (NXB Đại học Quốc gia TP.HCM, 2003)

Lịch sử văn minh và các triều đại Trung Quốc (NXB Tổng hợp TP.HCM, 2004)

Bút kiếm Kim Dung (NXB Văn học, 2005)

Đường vào triết học (NXB Tổng hợp TP.HCM, 2006)

Tôn giáo nhìn từ viễn cảnh xã hội học (NXB Hồng Đức, 2016)

sống đừng bao giờ từ bỏ

Sống Đừng Bao Giờ Từ Bỏ

“Cuộc sống chưa bao giờ dễ dàng với bất kỳ ai và cũng không khắc nghiệt đến nỗi cố bóp chết ai. Nếu chúng ta có đủ dũng khí bước qua và đi tiếp rồi thì tương lai sẽ tươi sáng”. Đó là những dòng thay cho lời kết của tác phẩm Sống đừng bao giờ từ bỏ. Sách do Nhà xuất bản Văn hóa - văn nghệ ấn hành vào những ngày cuối cùng của năm 2019.

Sống đừng bao giờ từ bỏ là câu chuyện của đôi vợ chồng trẻ Huỳnh Ngọc Trước và Lê Thanh Phong. Đúng là cuộc sống không dễ dàng với bất kỳ ai bởi được sinh ra, được sống bình an trọn vẹn một cuộc đời đã là diễm phúc. Trên hành trình cõi nhân sinh trăm năm ấy, có người đi qua an lành, có người đã gục ngã và cũng có những người đã không cam chịu số phận khi “tử thần” mang tên ung thư réo gọi tên mình.

Đôi vợ chồng trẻ ấy cũng hạnh phúc như bao đôi vợ chồng khác, nhưng rồi một ngày nọ “tử thần gọi tên”, anh bị ung thư và để rồi từ đó họ bước vào một hành trình “nghẹt thở” vượt lên số phận để “hồi sinh”. Để làm được điều mà nhiều người khác đã phải buông xuôi ấy, họ phải nuôi dưỡng niềm tin bất tuyệt: “Dù mỗi ngày thức dậy động lực sống của bạn là gì? Sống để yêu. Sống xây dựng sự nghiệp. Sống sẻ chia cùng bạn đời. Sống vì con, cho con. Trong hành trình đó, chắc chắn bạn sẽ cùng lúc phải giữ nhiều vai trò và đi qua nhiều thử thách trong gia đình và xã hội. Chỉ khi có sức khỏe, bạn mới có thể hoàn thành được tất cả những trách nhiệm và ước muốn. Là chỗ dựa tinh thần lẫn tài chính cho những người thân yêu”.

Tập sách nhỏ chính là câu chuyện kể về hành trình gian nan đầy cung bậc cảm xúc ấy với lời nhắn nhủ: “Tôi kể lại câu chuyện có thật về hành trình tôi cùng chồng điều trị bệnh và vượt qua sóng gió với mong ước chia sẻ chút kinh nghiệm cho những người cần”. Cuốn sách không chỉ kể về hành trình gian nan đi tìm sự sống ấy, cũng không chỉ là cách để họ “tri ân cuộc đời” mà còn mang trong nó đầy ắp những thông tin cần thiết cho những ai không may mắn khi phải bước vào cuộc hành trình khắc nghiệt ấy.

Đôi vợ chồng trẻ đã nỗ lực vượt qua 450 ngày đêm với tất cả những cung bậc cảm xúc ở tột cùng, rồi cuối cùng kỳ tích đã đến: “Được sống khỏe mạnh, bình an trở lại là một ân huệ lớn, lớn nhất trong cuộc đời” với lời nhắn nhủ lạc quan: “Thông qua những trang viết này, tôi muốn gửi gắm một điều: cuộc chiến giành lấy lại sự sống, giành lại sức khỏe là cuộc chiến cam go trong thời hiện đại. Xin hãy xem ung thư như một căn bệnh dài hơi, khó chữa nhưng không phải là không chữa được; đừng xem căn bệnh này là án tử để rồi sớm “buông tay”. Nếu có niềm tin lớn lao như thế, bạn mới có thể chiến đấu ngoan cường cho đến ngày chiến thắng bệnh tật, trở về cuộc sống thường ngày khỏe mạnh, để tiếp tục sống, tiếp tục ước mơ và viết nên những trang sách cuộc đời thật ý nghĩa”.

bộ loạn 12 sứ quân - tập 1: mộng bá tranh hùng + tập 2: vọng nguyệt đài (1 cuốn)

Loạn 12 Sứ Quân - Tập 1: Mộng Bá Tranh Hùng + Tập 2: Vọng Nguyệt Đài (1 Cuốn)

Theo chính sử: Sau khi Ngô Quyền mất (năm 944), Dương Tam Kha cướp ngôi vua của cháu gọi bằng cậu ruột là Ngô Xương Ngập. Trong triều xảy ra nhiều biến loạn, xung đột, tranh chấp làm cho chính quyền Trung ương suy yếu. Lợi dụng tình trạng đó, các thế lực phong kiến nổi dậy mỗi người hùng cứ một phương tranh chấp đánh phá nhau quyết liệt nhất là từ năm 965 khi chính quyền Trung ương tan rã. Đó là loạn mười hai sứ quân.

Mười hai sứ quân đó là:

Kiều Công Hãn chiếm giữ Phong Châu (Bạch Hạc, Vĩnh Phú)

Kiều Thuận chiếm giữ Hồi Hồ (Cẩm Khê, Vĩnh Phú)

Ngô Nhật Khánh chiếm giữ Đường Lâm (Ba Vì, Hà Tây)

Nguyễn Khoan chiếm giữ Tam Đái (Yên Lạc, Vĩnh Phú)

Đỗ Cảnh Thạc chiếm giữ Đỗ Đặng Giang (Thanh Oai, Hà Tây)

Lý Khuê chiếm giữ Siêu Loại (Thuận Thành, Hà Bắc)

Nguyễn Thủ Tiệp chiếm giữ Tiên Du (Tiên Sơn, Hà Bắc)

Lã Đường chiếm giữ Tô Giang (Văn Lâm, Hải Hưng)

Nguyễn Siêu chiếm giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Nội)

Phạm Bạch Hổ chiếm giữ Đăng Châu (Bàn Động, Hải Hưng)

Trần Lãm chiếm giữ Bố Hải Khẩu (Vũ Tiên, Thái Bình)

Vua Ngô là Ngô Xương Xí cũng rút về chiếm giữ Bình Kiều (Triệu Sơn, Thanh Hóa).

Lãnh địa của mỗi sứ quân bằng khoảng một vài huyện ngày nay, các sứ quân xây thành đắp lũy thôn tính lẫn nhau gây ra biết bao đau khổ cho nhân dân, đi ngược lại nguyện vọng hòa bình thống nhất của dân tộc, nền độc lập vừa mới giành được đứng trước nguy cơ hiểm nghèo. Do đó, yêu cầu sống còn của cả dân tộc là phải giữ vững khối đoàn kết toàn dân, đòi hỏi phải chấm dứt cuộc nổi loạn của mười hai sứ quân, khôi phục quốc gia thống nhất. Người anh hùng dân tộc giương cao ngọn cờ thống nhất quốc gia và hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng trước lịch sử là Đinh Bộ Lĩnh.

Đinh Bộ Lĩnh người làng Hoa Lư, là con người thông minh cương nghị có chí lớn, lúc đầu ông liên kết và đứng dưới cờ của sứ quân Trần Lãm. Trần Lãm chết, ông trở thành người cầm đầu một lực lượng vũ trang hùng mạnh, lần lượt đánh bại cái sứ quân khác. Đến năm 967, Loạn mười hai sứ quân được dập tắt, đất nước được thống nhất. Đây là thắng lợi của xu hướng thống nhất quốc gia, thắng lợi của tinh thần dân tộc và ý chí độc lập mạnh mẽ của nhân dân.

Tác giả Nguyễn Đình Tư rất tâm huyết và ấp ủ đề tài này từ lâu nên đã bỏ ra nhiều công sức khắc phục nhiều khó khăn để thực hiện hoài bão của mình. Nhưng theo tác giả, đề tài này nằm trong giai đoạn khuyết sử. Chính sử chỉ ghi lại các điểm chính còn chi tiết thì sơ sài.Nhiều câu hỏi đặt ra cho tác giả, tác giả đã vận dụng mọi khả năng có thể có được hầu góp phần giải đáp một số câu hỏi có liên quan đến giai đoạn Loạn mười hai sứ quân.

Loạn mười hai sứ quân xảy ra cách đây hơn một nghìn năm nên việc tái tạo hiện thực bối cảnh lịch sử qua trang viết sao cho chuẩn xác phù hợp, kể cả việc sử dụng ngôn từ là rất khó khăn, do đó không tránh khỏi hạn chế ở mặt này, mặt kia. Nhà xuất bản và tác giả mong đươc sự lượng thứ và góp ý của rộng rãi bạn đọc.

bộ loạn 12 sứ quân - tập 3: hoa lư anh hùng tụ nghĩa + tập 4: khói lửa kinh kỳ (1 cuốn)

Loạn 12 Sứ Quân - Tập 3: Hoa Lư Anh Hùng Tụ Nghĩa + Tập 4: Khói Lửa Kinh Kỳ (1 Cuốn)

Theo chính sử: Sau khi Ngô Quyền mất (năm 944), Dương Tam Kha cướp ngôi vua của cháu gọi bằng cậu ruột là Ngô Xương Ngập. Trong triều xảy ra nhiều biến loạn, xung đột, tranh chấp làm cho chính quyền Trung ương suy yếu. Lợi dụng tình trạng đó, các thế lực phong kiến nổi dậy mỗi người hùng cứ một phương tranh chấp đánh phá nhau quyết liệt nhất là từ năm 965 khi chính quyền Trung ương tan rã. Đó là loạn mười hai sứ quân.

Mười hai sứ quân đó là:

Kiều Công Hãn chiếm giữ Phong Châu (Bạch Hạc, Vĩnh Phú)

Kiều Thuận chiếm giữ Hồi Hồ (Cẩm Khê, Vĩnh Phú)

Ngô Nhật Khánh chiếm giữ Đường Lâm (Ba Vì, Hà Tây)

Nguyễn Khoan chiếm giữ Tam Đái (Yên Lạc, Vĩnh Phú)

Đỗ Cảnh Thạc chiếm giữ Đỗ Đặng Giang (Thanh Oai, Hà Tây)

Lý Khuê chiếm giữ Siêu Loại (Thuận Thành, Hà Bắc)

Nguyễn Thủ Tiệp chiếm giữ Tiên Du (Tiên Sơn, Hà Bắc)

Lã Đường chiếm giữ Tô Giang (Văn Lâm, Hải Hưng)

Nguyễn Siêu chiếm giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Nội)

Phạm Bạch Hổ chiếm giữ Đăng Châu (Bàn Động, Hải Hưng)

Trần Lãm chiếm giữ Bố Hải Khẩu (Vũ Tiên, Thái Bình)

Vua Ngô là Ngô Xương Xí cũng rút về chiếm giữ Bình Kiều (Triệu Sơn, Thanh Hóa).

Lãnh địa của mỗi sứ quân bằng khoảng một vài huyện ngày nay, các sứ quân xây thành đắp lũy thôn tính lẫn nhau gây ra biết bao đau khổ cho nhân dân, đi ngược lại nguyện vọng hòa bình thống nhất của dân tộc, nền độc lập vừa mới giành được đứng trước nguy cơ hiểm nghèo. Do đó, yêu cầu sống còn của cả dân tộc là phải giữ vững khối đoàn kết toàn dân, đòi hỏi phải chấm dứt cuộc nổi loạn của mười hai sứ quân, khôi phục quốc gia thống nhất. Người anh hùng dân tộc giương cao ngọn cờ thống nhất quốc gia và hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng trước lịch sử là Đinh Bộ Lĩnh.

Đinh Bộ Lĩnh người làng Hoa Lư, là con người thông minh cương nghị có chí lớn, lúc đầu ông liên kết và đứng dưới cờ của sứ quân Trần Lãm. Trần Lãm chết, ông trở thành người cầm đầu một lực lượng vũ trang hùng mạnh, lần lượt đánh bại cái sứ quân khác. Đến năm 967, Loạn mười hai sứ quân được dập tắt, đất nước được thống nhất. Đây là thắng lợi của xu hướng thống nhất quốc gia, thắng lợi của tinh thần dân tộc và ý chí độc lập mạnh mẽ của nhân dân.

Tác giả Nguyễn Đình Tư rất tâm huyết và ấp ủ đề tài này từ lâu nên đã bỏ ra nhiều công sức khắc phục nhiều khó khăn để thực hiện hoài bão của mình. Nhưng theo tác giả, đề tài này nằm trong giai đoạn khuyết sử. Chính sử chỉ ghi lại các điểm chính còn chi tiết thì sơ sài.Nhiều câu hỏi đặt ra cho tác giả, tác giả đã vận dụng mọi khả năng có thể có được hầu góp phần giải đáp một số câu hỏi có liên quan đến giai đoạn Loạn mười hai sứ quân.

Loạn mười hai sứ quân xảy ra cách đây hơn một nghìn năm nên việc tái tạo hiện thực bối cảnh lịch sử qua trang viết sao cho chuẩn xác phù hợp, kể cả việc sử dụng ngôn từ là rất khó khăn, do đó không tránh khỏi hạn chế ở mặt này, mặt kia. Nhà xuất bản và tác giả mong đươc sự lượng thứ và góp ý của rộng rãi bạn đọc.

bộ loạn 12 sứ quân - tập 5: mưu chước thiền sư + tập 6: vạn thắng vương (1 cuốn)

Loạn 12 Sứ Quân - Tập 5: Mưu Chước Thiền Sư + Tập 6: Vạn Thắng Vương (1 Cuốn)

Theo chính sử: Sau khi Ngô Quyền mất (năm 944), Dương Tam Kha cướp ngôi vua của cháu gọi bằng cậu ruột là Ngô Xương Ngập. Trong triều xảy ra nhiều biến loạn, xung đột, tranh chấp làm cho chính quyền Trung ương suy yếu. Lợi dụng tình trạng đó, các thế lực phong kiến nổi dậy mỗi người hùng cứ một phương tranh chấp đánh phá nhau quyết liệt nhất là từ năm 965 khi chính quyền Trung ương tan rã. Đó là loạn mười hai sứ quân.

Mười hai sứ quân đó là:

Kiều Công Hãn chiếm giữ Phong Châu (Bạch Hạc, Vĩnh Phú)

Kiều Thuận chiếm giữ Hồi Hồ (Cẩm Khê, Vĩnh Phú)

Ngô Nhật Khánh chiếm giữ Đường Lâm (Ba Vì, Hà Tây)

Nguyễn Khoan chiếm giữ Tam Đái (Yên Lạc, Vĩnh Phú)

Đỗ Cảnh Thạc chiếm giữ Đỗ Đặng Giang (Thanh Oai, Hà Tây)

Lý Khuê chiếm giữ Siêu Loại (Thuận Thành, Hà Bắc)

Nguyễn Thủ Tiệp chiếm giữ Tiên Du (Tiên Sơn, Hà Bắc)

Lã Đường chiếm giữ Tô Giang (Văn Lâm, Hải Hưng)

Nguyễn Siêu chiếm giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Nội)

Phạm Bạch Hổ chiếm giữ Đăng Châu (Bàn Động, Hải Hưng)

Trần Lãm chiếm giữ Bố Hải Khẩu (Vũ Tiên, Thái Bình)

Vua Ngô là Ngô Xương Xí cũng rút về chiếm giữ Bình Kiều (Triệu Sơn, Thanh Hóa).

Lãnh địa của mỗi sứ quân bằng khoảng một vài huyện ngày nay, các sứ quân xây thành đắp lũy thôn tính lẫn nhau gây ra biết bao đau khổ cho nhân dân, đi ngược lại nguyện vọng hòa bình thống nhất của dân tộc, nền độc lập vừa mới giành được đứng trước nguy cơ hiểm nghèo. Do đó, yêu cầu sống còn của cả dân tộc là phải giữ vững khối đoàn kết toàn dân, đòi hỏi phải chấm dứt cuộc nổi loạn của mười hai sứ quân, khôi phục quốc gia thống nhất. Người anh hùng dân tộc giương cao ngọn cờ thống nhất quốc gia và hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng trước lịch sử là Đinh Bộ Lĩnh.

Đinh Bộ Lĩnh người làng Hoa Lư, là con người thông minh cương nghị có chí lớn, lúc đầu ông liên kết và đứng dưới cờ của sứ quân Trần Lãm. Trần Lãm chết, ông trở thành người cầm đầu một lực lượng vũ trang hùng mạnh, lần lượt đánh bại cái sứ quân khác. Đến năm 967, Loạn mười hai sứ quân được dập tắt, đất nước được thống nhất. Đây là thắng lợi của xu hướng thống nhất quốc gia, thắng lợi của tinh thần dân tộc và ý chí độc lập mạnh mẽ của nhân dân.

Tác giả Nguyễn Đình Tư rất tâm huyết và ấp ủ đề tài này từ lâu nên đã bỏ ra nhiều công sức khắc phục nhiều khó khăn để thực hiện hoài bão của mình. Nhưng theo tác giả, đề tài này nằm trong giai đoạn khuyết sử. Chính sử chỉ ghi lại các điểm chính còn chi tiết thì sơ sài.Nhiều câu hỏi đặt ra cho tác giả, tác giả đã vận dụng mọi khả năng có thể có được hầu góp phần giải đáp một số câu hỏi có liên quan đến giai đoạn Loạn mười hai sứ quân.

Loạn mười hai sứ quân xảy ra cách đây hơn một nghìn năm nên việc tái tạo hiện thực bối cảnh lịch sử qua trang viết sao cho chuẩn xác phù hợp, kể cả việc sử dụng ngôn từ là rất khó khăn, do đó không tránh khỏi hạn chế ở mặt này, mặt kia. Nhà xuất bản và tác giả mong đươc sự lượng thứ và góp ý của rộng rãi bạn đọc.

bộ sài gòn - chuyện đời của phố 2 (tái bản 2021)

Sài Gòn, cũng như bất cứ thành phố nào trên thế gian, giấu trong lòng nó hàng ngàn ký ức. Có loại ký ức hiện hữu, chẳng hạn một bức tranh xưa, một tờ báo cũ, một món nữ trang; cũng có loại ký ức thuộc về tinh thần, chỉ có thể sống trong niềm thương nỗi nhớ của người hoài niệm. Mà dù là loại ký ức nào thì chúng cũng đang dần bị thất tán, lãng quên. Thật may, Sài Gòn còn có một người tình như Phạm Công Luận.

Mối tình của anh với Sài Gòn đã cho ra đời bộ sách quý, Sài Gòn – Chuyện Đời Của Phố tập 1 và 2. Khi tập 1 ra đời, nhiều người cầm cuốn sách trên tay đã rưng rưng, bởi những hình ảnh xưa cũ này, những câu chuyện đượm màu ký ức này, chúng như cỗ máy thời gian thần kỳ ngay lập tức đưa người ta quay về với một thời hoa mộng.

Có thể nói Sài Gòn – Chuyện Đời Của Phố là một tác phẩm khảo cứu công phu, nghiêm túc, với rất nhiều tư liệu quý hiếm mà thậm chí thư viện hay bảo tàng quốc gia cũng không có được. Bên cạnh đó cuốn sách cũng có thể coi như một áng văn chương mềm mại, tinh tế và thâm trầm. Văn Phạm Công Luận trong Sài Gòn – Chuyện Đời Của Phố dường như hòa làm một với rêu phong. Độc giả đã quen lối văn hùng biện, triết luận của anh trong “Nếu biết trăm năm là hữu hạn”, “Những lối về ấu thơ”… khó có thể nhận ra anh trong cuốn sách này, nhưng thật ra anh luôn có ở đó. Những câu văn anh giấu mình, khiêm nhượng trước sự mênh mông của đời phố và đời người.

Sài Gòn – Chuyện Đời Của Phố tập 2 có nhiều tư liệu hiếm và lạ hơn tập 1. Chẳng hạn những bức tranh quý giá trong bộ sưu tập của chị Loan de Fontbrune, một nhà sưu tầm Pháp tha thiết yêu nghệ thuật Việt; hình chụp Trịnh Công Sơn tuổi 23 già dặn và ưu phiền; hình chụp bản viết tay bức thư của cụ Vương Hồng Sển gửi Thủ tướng chánh phủ Việt Nam cộng hòa; hình ảnh nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang cùng người vợ mong manh, bạc phận… Và còn nhiều nhiều nữa. Hẳn Phạm Công Luận đã bỏ lại trong những ngõ ngách Sài Gòn cả một phần tuổi trẻ với bao nhiêu thời gian, công sức, đam mê mới có được những tư liệu độc đáo, quý hiếm này. Và hẳn người trao nó cho anh đã nhìn thấy trước mắt mình một tri âm tri kỷ, một tao nhân nặng nợ với Sài Gòn, một kẻ hành hương, một người thủ tín…

* * * * *

“Ai cũng thấy lịch sử Sài Gòn chỉ vài trăm năm, tài liệu cổ rất ít. Các tài liệu viết có bài bản chủ yếu bằng tiếng Pháp, là điều khó khăn nếu không nắm được ngôn ngữ này. Tôi tự biết không thể đi vào việc nghiên cứu, nên chỉ nhẩn nha viết điều gì mình có tài liệu, điều gì đủ cảm hứng để xông vào tìm hiểu. Cuốn sách của tôi giống như một cuốn tạp chí về Sài Gòn xưa do một người viết, sắc thái chính là chủ quan. Tài liệu là tùy duyên, phải tương đối lạ và độc, quan trọng nhất là tài liệu sống qua gặp gỡ, phỏng vấn. Hình ảnh cố gắng sao cho phong phú. Trong quá trình đi tìm tài liệu, khi không lần ra đầu mối hoặc thấy không có gì hay, tôi bỏ qua đề tài đó và đi tìm điều khác.”

“Tôi đọc được câu: “Lịch sử nhân loại như một dòng sông đôi khi đầy máu và xác những người chém giết nhau, cướp bóc lẫn nhau; mà các sử gia chỉ thường chép những hành động đó thôi. Nhưng trên bờ còn có những người khác cất nhà, làm vườn, nuôi con, làm thơ” (Will & Ariel Durant). Có những điều đã có người viết rất giỏi, nên tôi muốn góp sức viết chuyện “trên bờ” của dòng lịch sử, là những chuyện đời thường “cất nhà, làm vườn, nuôi con...”. Có thể chúng riêng tư nhưng cuộc sống đời thường của một giai đoạn quá khứ nào đó vẫn góp phần vào chuyện đời của một thành phố.”

(Trích “Tác giả Phạm Công Luận: Viết về những chuyện “trên bờ” của dòng lịch sử - Báo Tuổi Trẻ Cuối Tuần)

 

Một số nhận xét về cuốn sách

“Điềm đạm, nhẹ nhàng và cẩn trọng là những gì người đọc có thể cảm nhận tính cách của Phạm Công Luận qua văn anh. Sau cuốn Sài Gòn – Chuyện Đời Của Phố 1 được độc giả quan tâm đặc biệt, Phạm Công Luận trở thành tên tuổi mới đáng chú ý trong dòng sách viết về Sài Gòn vốn ít ỏi bấy lâu. Sự chỉn chu kỹ lưỡng và cái nhìn của một ký giả biết lùi khỏi những chộn rộn thời sự giúp anh có được sự giản dị, tinh tế khi thu thập và kể lại vệt chuyện về Sài Gòn - thành phố mà anh sinh ra và lớn lên.” - Tuổi Trẻ Cuối Tuần

“Cuốn sách có nhiều hình ảnh xưa chưa công bố. Lật giở từng trang sách, người đọc có thể nhớ về Sài Gòn của một thời, những bìa báo xuân và đĩa nhạc xưa cũ, cội nguồn những tấm ảnh về các diễn viên nổi tiếng nay đã lui vào hậu trường, những sinh hoạt lạ lẫm của "hòn ngọc Viễn Đông" đầu thế kỷ 20, những câu chuyện kiếm sống đầy xúc động trên đường phố Sài Gòn - Gia Định và hồi ức Tết đậm đà thân thương.” - VnExpress

“Đọc sách anh Phạm Công Luận, tôi chợt khám phá ra mỗi một con người Việt Nam là một kho tàng, từ những người vô danh, đến những người danh tiếng. Đề tài viết không đâu xa nằm trong sự tiếp xúc trong cảm thông, trong giao tiếp hằng ngày. Đọc sách anh tôi chợt thấy mình còn nợ với biết bao nhân vật trong thời đại mà tôi đã gặp thân thiết. Những người trong sách anh tôi đã gặp trong đời, và biết bao nhiêu người khác tôi đã gặp thật đáng viết. Sách của anh cho chúng ta những hình ảnh về Sàigòn những ngày xưa thân yêu, xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả tại hải ngoại, thật là một món quà quý báu cho người Việt nước ngoài trở về quê hương, mang quyển Sài Gòn – Chuyện Đời Của Phố của anh Phạm Công Luận, làm quà trao tặng nhau để cùng nhớ về quê hương những ngày tháng xa xưa, còn rưng rưng đầy kỷ niệm thân yêu.” - T.S Phạm Trọng Chánh

“Luận có nhiều “hàng độc” để viết lắm: những căn nhà cổ, những bức tranh giấy và tranh kiếng Lục Tỉnh Nam Kỳ, những tấm ảnh “minh tinh, tài tử”, những tờ nhạc, tập báo, quyển sách xưa hiếm. Anh “moi móc” từ những vựa ve chai ngoài đường và trên mạng cho đến những sưu tập cá nhân ở Việt Nam và hải ngoại, để đưa ra những tư liệu không chỉ bằng chữ viết, chữ in mà còn là hình ảnh, lời kể, bức tranh, bức tượng, cuộn phim sống động. Tất cả những nhân chứng, vật chứng ấy, thấm đậm - cái nôn nao đi tìm sự thật và vẻ đẹp của ngày xưa và người xưa. Thấm đậm - cái cách anh yêu Sài Gòn không ồn ào mà lại sâu lắng... Và rồi, trên cái vốn thông tin và tư liệu giàu có đấy, để viết được thành sách, Luận có được một sự quan sát tỉ mỉ và tìm kiếm nhẫn nại. Luận có được một thần thái, một cách viết nhẹ nhàng, không cần điệu nghệ, không cần khoa trương mà vẫn cháy bỏng tình yêu đất và người.” - Nhà báo Phúc Tiến

bộ sài gòn - chuyện đời của phố 3 (tái bản 2021)

Cũng là những câu chuyện về Sài Gòn với phong cách điềm đạm, nhẹ nhàng, cẩn trọng như hai tập sách trước, nhưng với mỗi câu chuyện trong Sài Gòn - Chuyện Đời Của Phố 3, tác giả Phạm Công Luận vẫn mang lại sự mới mẻ và cảm giác hứng thú riêng cho người đọc bằng những tư liệu quý, sinh động, cách thể hiện mềm mại, có tính hệ thống, suốt hơn 330 trang sách.

Sài Gòn qua góc nhìn của người ở xa:

Mạch ngầm xuyên suốt mà người đọc dễ dàng nhận ra thông qua Sài Gòn - Chuyện Đời Của Phố 3 vẫn là một Sài Gòn phồn hoa, rộng mở đón nhận thành phần, không phân biệt xuất thân, gốc gác. Những đặc điểm đó khúc xạ qua lăng kínhvà sự nhìn nhận riêng của những nhân chứng từng là người ở các tỉnh lân cận đến thành phố này. Theo tác giả: “Những người di dân đến Sài Gòn luôn phát hiện những điều thú vị mà những người sống ở đô thị này từ nhỏ đến lớn cũng không nhận ra được”.

Đó là một Sài Gòn sang trọng, hoa lệ trong lời kể của chàng thanh niên Lý Thân – cậu ấm trong một gia đình ở Lái Thiêu (Bình Dương), thông qua chuyến lang thang khám phá của mình trên đường phố Sài Gòn trước 1954. Sài Gòn trong mắt người miền Trung cách nay hơn bảy mươi năm trước là: “... nhà cửa phố xá đông nghẹt, có nhà lầu cao ba tầng, có đường đi rộng rãi ba thước, trên bộ xe hơi chạy boong boong, dưới nước tàu thủy chạy vù vù, tối về đèn điện thắp sáng choang như ban ngày, ông Tây bà đầm ôm nhau đăng-xê coi vui mắt quá chừng! Thật là văn minh quá sức tưởng tượng của dân An Nam ta...”. Có thể đó là những ngộ nhận từ sự thật được tô vẽ thêm, nhưng qua những trang sách, Sài Gòn còn là nơi những người nghèo chí thú làm ăn và giỏi tích cóp như “chú Chệc bán đậu phộng rang”, “cánh xe ôm uống cà phê vợt đọc nhật trình” hay cư dân góc xóm Đa Kao… Không giàu có nhưng có thể tồn tại an nhiên và phong lưu, giữ bản sắc, nguồn gốc của mình. Ngay cả ở người giàu sụ, tiêu tiền như nước cũng có tác phong giản dị đến bất ngờ như trong bài “Người trong này họ như thế”. Sài Gòn qua câu chuyện của người con dâu trong một gia đình cư dân lâu đời ở Bà Chiểu chuẩn bị đón Tết tái hiện đời sống người Sài Gòn – Gia Định hồn hậu, nhân ái, trọng nghĩa. Sài Gòn trong sinh hoạt những ngày trước Tết của gia đình gốc người Hà Nội đến sống ở cổng xe lửa số 7,quận Phú Nhuận với sự tinh tế, nhẹ nhàng, thoảng hương hoa thủy tiên trong nỗi nhớ quê xưa rưng rưng ký ức. Góc nhìn của họa sĩ ký họa kiêm phóng viên Mỹ Dick Adair về những bức tranh ghi chép mọi mặt đời sống nơi đây, ghi nhận tinh tế đến chi tiết người Sài Gòn “giặt đồ, nghe radio và mùi nước mắm đang xào nấu trên bếp”, trong khi bên kia sông máy bay đang nã đạn và kết luận rằng:“sự hòa nhập vào đời sống Sài Gòn mới là câu chuyện thú vị hơn mọi kế hoạch đã trù tính”.

Những gì làm nên “chất Sài Gòn”?

Người thời nay nghe mỹ từ “Hòn ngọc Viễn Đông”, nhưng mấy người hiểu được nguyên nhân cũng như lý giải vì sao có tên gọi đó? Một điều thú vị của Sài Gòn - Chuyện Đời Của Phố 3 có những tư liệu (vô tình hay hữu ý), dần hé lộ và cắt nghĩa cho quá khứ lung linh của thành phố này. Nó xuất phát từ ý chí của người tha hương đến Sài Gòn đến lập nghiệp, như cách chủ tiệm may đồ đầm Kim Sơn ở đường Amiral Dupré ở trung tâm thành phố tổ chức tiệm may có bài bản khiến khách nước ngoài và giới nghệ sĩ luôn hài lòng. Bà Trùng Quang – người phụ nữ Sài Gòn gốc Bắc tài hoa, ham học hỏi tìm cách sang Nhật du học và hình thành doanh nghiệp làm sản phẩm “Búp bê văn hóa” tinh sảo, mang bản sắc Việt mà đến bây giờ chưa ai khôi phục được. Ông Nguyễn Gia Tốn, với trăn trở cải tiến kỹ thuật, kết nối hai chiếc xe máy hiệu Gilera thành chiếc xe bốn bánh giá rẻ. Đó là câu chuyện của nhà trí thức cách mạng Nguyễn An Ninh, không ngại bước ra lề đường phố chợ với lời rao trào lộng để thu hút khách hàng mua dầu cù là. Là sự ra đời của chiếc xe ôm Lambretta đầu tiên, theo tinh thần “cái khó ló cái khôn”. Đó là cách người Sài Gòn tâm huyết cho giáo dục thế hệ trẻ qua nhiều tủ sách lành mạnh, mà đặc biệt là tủ sách Tuổi Hoa dồn cả tâm huyết của văn nhân, trí thức, trở thành một hiện tượng của xuất bản. Đó là cách mà Giáo sư Lê Văn Khoa xây dựng chương trình truyền hình giáo dục hiện đại và đầy cuốn hútmang tên “Thế giới của trẻ em” cách nay nửa thế kỷ, chủ động hướng đến trẻ em không có cơ hội đi học do cái nghèo và chiến sự. Đó là cách tiếp cận, nâng cao kỹ thuật và chất lượng phục vụ của phi cảng Tân Sơn Nhất thuở ban đầu.Sài Gòn cũng là môi trường cho sáng tạo, chiêu hiền đãi sĩ với quán cơm thiện nguyện kiêm phòng trà Anh Vũ, hay Hội họa sĩ Trẻ.Nơi đó, hội tụ những tinh hoa, là cảm hứng sáng tác, nâng đỡ ý tưởng mới của những người trẻ.

Trong ánh lung linh của “Hòn Ngọc Viễn Đông”, khí chất của người Sài Gòn làm nền. Đó là một kết cục đáng buồn đầy tự trọng của chị giúp việc nhà cho ông chủ người Pháp, chọn cách cuối cùng là tự vẫn để chứng minh sự trong sạch cho mình trước nghi án trộm tiền của chủ. Là lá đơn của danh thủ 28 tuổi – Phạm Văn Lắm, dù đang đỉnh cao phong độ nhưng vẫn tự trọng nhường đàn em cơ hội khoác áo đội tuyển khi nhận thấy đội tuyển cần trẻ hóa. Là Giáo sư Lê Văn Khoa, sau những cống hiến cho giáo dục ở Sài Gòn, với tài năng và tư chất sẵn có, đặt chân đến Mỹ đã có những cống hiến tầm thế giới, làm rạng danh người Việt trong nhiều lĩnh vực như nhiếp ảnh, âm nhạc… Ông không chấp nhận cúi đầu xin tiền bố thí từ chính phủ Mỹ cho cộng đồng Việt vì cho rằng: “người Việt có khả năng lớn nhưng cần được giúp đỡ để đóng góp cho xã hội” thay vì chấp nhận đánh giá: “người Việt không biết gì hết và nghèo đói nên cần hướng dẫn xin trợ cấp”. Người Sài Gòn ý thức nâng tầm hàng Việt với nhà hàng Việt cao cấp đầu tiên để đón du khách, cho ra đời Trung tâm bách hóa tổng hợp “Saigon Departo” hiện đại không thua kém một Trung tâm thương mại hiện đại ngày nay...

Những câu chuyện trong Sài Gòn - Chuyện Đời Của Phố 3, nói như cách của tác giả Phạm Công Luận là “những câu chuyện “trên bờ” của dòng lịch sử”, nhưng chúng giúp cho người đọc hình dung rõ và sinh động hơn một dòng chảy lịch sử một Sài Gòn đã trôi qua. Ký ức đô thị này may mắn được truyền giữ theo cách riêng cùng với sự ra đời của cuốn sách này. Nếu đô thị không có ký ức, theo tác giả “cũng như một con người không nhớ gì về nơi mình sinh ra, lớn lên và cách mình trưởng thành ra sao. Nếu vậy, sẽ không biết cách đánh giá đúng các giá trị để chọn lọc, giữ gìn và truyền lưu”.

hệ thống bán hàng đỉnh cao - the snowball system (tái bản)

Ở Việt Nam, khi nhắc đến những cụm từ như “bán hàng” – “sales”, “tư vấn” (bảo hiểm, giáo dục), “môi giới” (chứng khoán, bất động sản), “phát triển kinh doanh” đa phần mọi người đều không thoải mái hoặc không mấy thiện cảm vì họ vốn không thực sự hiểu bản chất của các công việc này.

Dù có muốn tin hay không, bạn đang làm công việc bán hàng. Ngày nay, có nhiều chuyên gia bán hàng hơn bạn nghĩ – luật sư, chuyên gia tư vấn, chuyên gia tiếp thị, chuyên viên kế toán, thợ chụp hình, designer, bác sĩ… Nếu bạn giỏi về một chuyên môn bất kỳ và khách hàng phải trả tiền để bạn giúp họ thực hiện chuyên môn đó, thì thực ra, bạn là một người bán hàng.

Thực trạng chung của những người làm nghề bán hàng hiện nay đó là đa số họ đều thấy việc bán hàng vô cùng khó khăn và đòi hỏi những tố chất thiên bẩm. Vì thế nếu có mong muốn trở nên giỏi hơn trong những nghề này họ cũng không biết cách thức để phát triển hiệu quả.

Những cuốn sách, những khóa đào tạo kỹ năng bán hàng truyền thống luôn đề cao tầm quan trọng của việc “chốt hợp đồng. Chỉ cần bán được hàng là xong. Bán hàng kiểu cũ ưu tiên hiệu suất ngắn hạn hơn là các mối quan hệ lâu dài.

Ngày nay, quan niệm trên không còn phù hợp nữa. Tính đề phòng của người tiêu dùng cao hơn, và sự xuất hiện của những Website đánh giá sản phẩm, mạng xã hội cũng đồng nghĩa rằng: Mối quan hệ của bạn với tất cả khách hàng, không bao giờ thực sự kết thúc. Khách hàng được tự do chia sẻ về kinh nghiệm làm việc với bạn bất kỳ lúc nào họ muốn. Ngày nay, tin tức lan rất nhanh, và tin xấu thì còn lan nhanh hơn.

Việc bán hàng kiểu cổ điển khiến sự gắn kết giữa hai bên rất yếu ớt và dễ bị phá vỡ, nhưng nếu bạn giúp đỡ khách hàng một cách có chiến lược, bằng cách sử dụng Hệ thống bán hàng đỉnh cao, bạn sẽ thu được vô vàn lợi ích kể cả khi công việc giữa hai bên đã chấm dứt.

Hệ thống bán hàng đỉnh cao – Snowball là gì?

Hệ thống bán hàng đỉnh cao gồm nhiều chiến lược, công cụ và chiến thuật hoạt động cùng nhau như một hệ thống tích hợp và tự củng cố. Phương pháp được trình bày theo từng bước cụ thể để thực hành và trở nên giỏi hơn. Dù bạn có năng lực ra sao, tố chất thế nào bạn cũng có thể trở thành một người bán hàng tuyệt vời thông qua việc “thực hành có chủ ý” theo hệ thống này.

Bản chất của Hệ thống bán hàng đỉnh cao là làm cho khách hàng cảm thấy họ đặc biệt. Bằng cách lắng nghe những mong muốn của họ và đáp ứng những mong muốn đó. Khi đã khiến khách hàng cảm thấy bạn coi trọng họ rồi, phần còn lại của quá trình bán hàng sẽ trở nên dễ dàng hơn.

Cuối cùng khách hàng của bạn sẽ hài lòng đến nỗi họ không thể dừng nói về bạn với mọi người. Họ trở thành người quảng cáo cho bạn – một cách marketing hiệu quả hơn bao giờ hết.

Tác giả Mo Bunnell là ai?

Là người sáng lập và CEO của Bunnell Idea Group, một công ty huấn luyện, đào tạo và tư vấn chuyên về mảng bán hàng và Phát triển kinh doanh. Với vai trò là chuyên gia tư vấn và diễn giả chính của công ty, ông đã có cơ hội làm việc với những nhà lãnh đạo/nhóm lãnh đạo cấp cao đến từ nhiều công ty trong top Fortune 500 thuộc nhiều ngành nghề: công ty luật, công ty dịch vụ chuyên nghiệp, các tổ chức phi lợi nhuận…

Ai nên đọc cuốn sách Hệ thống bán hàng đỉnh cao

– Những người đang trực tiếp làm các công việc bán hàng như: nhân viên bán hàng B2C, B2B (Business to Business), B2G (Business to Government), chuyên viên phát triển kinh doanh, tư vấn giáo dục, tư vấn bảo hiểm, tư vấn bán xe hơi, môi giới bất động sản, môi giới chứng khoán…

– Những người giỏi về một chuyên môn bất kỳ và muốn khách hàng trả tiền nhiều hơn để bạn giúp họ thực hiện chuyên môn đó: giáo viên, luật sư, chuyên viên kế toán, thợ chụp hình đám cưới, chuyên viên thiết kế đồ họa, marketing…

– Những nhà quản lý, chủ doanh nghiệp muốn cải thiện kết quả kinh doanh của công ty.

Chuyên gia nói gì về sách về Hệ thống bán hàng đỉnh cao

“Hệ thống bán hàng đỉnh cao” là một trong những quyển sách về bán hàng hay nhất tôi từng đọc. Nếu bạn áp dụng những công cụ được trình bày trong quyển sách này, kết quả kinh doanh của bạn sẽ được cải thiện đáng kể. Những chuyên gia thành công luôn làm việc một cách có hệ thống và “Hệ thống bán hàng đỉnh cao” sẽ giúp độc giả thành công. Hệ thống của Mo đã rất hữu ích cho tôi và nhiều luật sư ở công ty của chúng tôi.” – Mike Duffy, Giám đốc Dịch vụ Khách hàng, King and Spalding.

“Với tư cách là một người có trên 20 năm kinh nghiệm trong việc đào tạo bán hàng trong các tập đoàn lớn, tôi tin rằng mình đã biết mọi cách tiếp cận về phát triển kinh doanh rồi. Nhưng sau đó tôi gặp Mo Bunnell. Phương pháp của anh ấy có một sự kết hợp vô cùng độc đáo: vừa dễ hiểu và dễ áp dụng, lại vừa mang lại hiệu quả nhanh chóng và to lớn. “Hệ thống bán hàng đỉnh cao” là một thế cờ làm thay đổi cục diện, quyển sách này đã giúp đội bán hàng của chúng tôi củng cố các mối quan hệ và chốt đơn hiệu quả hơn.” – Joby Gendron, Giám đốc Phát triển Bán hàng, Aetna.

Mục lục

LỜI CẢM ƠN

LỜI MỞ ĐẦU

LỜI GIỚI THIỆU

CHƯƠNG 1: Nghĩ lớn bắt đầu nhỏ, gia tăng quy mô

CHƯƠNG 2: Bánh đà

CHƯƠNG 3: Nhắm đến khách hàng lý tưởng và định vị để chiến thắng

CHƯƠNG 4: Khiến khách hàng (thực sự) yêu mến bạn

CHƯƠNG 5: Biến khách hàng thành khách hàng tiềm năng

CHƯƠNG 6: Các chiến thuật tạo khách hàng tiềm năng

CHƯƠNG 7: Biến khách hàng tiềm năng thành khách hàng thực sự

CHƯƠNG 8: Đừng chốt hợp đồng nữa

CHƯƠNG 9: Hoạch định chiến lược khách hàng cho thành công lâu dài

CHƯƠNG 10: Tạo đà phát triển kinh doanh cho nhóm bạn

PHẦN KẾT: Khởi động Hệ thống bán hàng đỉnh cao

nghệ thuật đầu tư dhandho - the dhandho investor (tái bản 2021)

Khi nhắc tới đầu tư giá trị, chúng ta không thể không nhắc đến người đàn ông lỗi lạc, người được ví như một “Warren Buffett đời thứ hai”, đó là Mohnish Pabrai.

Thuộc diện sinh sau đẻ muộn lại không được đào tạo bài bản về tài chính nhưng nhưng Mohnish Pabrai đã trở thành một nhà đầu tư vô cùng thành công. Ông được xếp vào hàng ngũ những nhà đầu tư giá trị nổi danh thế hệ mới cùng Phil Town, Guy Spier, Seth Klarman; những con người kế thừa một cách xuất sắc phương pháp đầu tư của các bậc “tiền bối” Benjamin Graham, Warren Buffett và Charlie Munger. Mohnish được biết tới bởi cách tiếp cận cực kì thành công trong dài hạn với thành tích đáng nể: đạt lãi kép tới 18.8%/năm suốt giai đoạn khó khăn của thị trường chứng khoán Hoa Kỳ từ 1999-2008 (thị trường chung chỉ mang lại mức lợi nhuận khoảng 1%) và biến 1 triệu đô la ban đầu của trong quỹ đầu tư của mình (năm 1999) tăng trưởng thành 400 triệu đô la ngày nay.

Lối tiếp cận truyền thống của hầu hết các nhà đầu tư trên thực tế luôn là “Rủi ro cao, lợi nhuận cao” nhưng với Mohnish Pabrai thì không nhất thiết phải như vậy. “Rủi ro thấp, lợi nhuận cao” đó là tất cả những gì ông tìm kiếm.

Mohnish Pabrai thông qua cuốn sách nổi tiếng của mình - “Nghệ Thuật Đầu Tư Dhandho – The Dhandho Investor” sẽ từng bước chỉ ra cho chúng ta những đặc điểm và cách thức đầu tư mà ông đã áp dụng rất hiệu quả trong thực tế. Và thật là may mắn những “túi khôn” và trí tuệ của Mohnish sẽ đến và đi thẳng vào đầu chúng ta bằng lối viết và kể chuyện đơn giản, dễ hiểu.

“Ngửa thì tôi thắng, sấp thì tôi chẳng thiệt bao nhiêu” đó chính là nguyên tắc lặp đi lặp lại trong cuốn sách thông qua hàng loạt các thí dụ về những ngành nghề, những doanh nhân, và những cơ hội kinh doanh khác nhau. Bạn sẽ hiểu được nguyên nhân vì sao những người Patel, một dân tộc thiểu số Ấn Độ di cư sang Mĩ năm 1970, với số dân vô cùng ít ỏi, lại có thể vươn lên chiếm tới 50% thị phần ngành nghề kinh doanh nhà nghỉ (Motel) tại Mỹ, vì sao doanh nhân Richard Branson lại đạt được thành công lớn với tập đoàn Virgin, vì sao “Vua” thép Ấn Độ Lakshmi Mittal lại là ông hoàng trong lĩnh vực của mình.

Hãy tập trung nghiên cứu và đầu tư vào những công ty bán những sản phẩm mà tất cả mọi người cần; hãy đầu tư vào những công ty có xác suất thay đổi và buộc phải thay đổi ít nhất, những công ty có rủi ro thấp và tính bất định cao; hãy biết chờ đợi và đặt cược lớn khi lợi thế nghiêng về phía mình; hãy cược ít, cược lớn và cược không thường xuyên; hãy mua khi những người khác tuyệt vọng. Đó là tất cả những gì bạn cần phải làm khi đầu tư theo phong cách của Mohnish Pabrai.

NHẬN XÉT VỀ SÁCH

Monish Pabrai là một người có tư tưởng sắc sảo, ông thích giải mã thế giới tài chính huyền bí đồng thời cũng là người xâu chuỗi câu chuyện đến tài tình. Cho dù bạn hoang mang thế nào trước những thế lực đứng sau sự bấp bênh của giá cổ phiếu trên Phố Wall hay bạn biết chắc mình đã tỏ đi nữa, bạn cũng sẽ hiểu thấu đáo hơn khi đọc cuốn sách này. Monish Pabrai dẫn ra câu chuyện của những ông trùm kinh doanh và bài thẩm tra thông minh nhằm chắt lọc các nguyên tắc cốt lõi mang giá trị sâu sắc. Tất cả được đóng gói thành bộ ý tưởng hữu ích mà bạn nên vận dụng vào chính quá trình đầu tư của mình.

-  Srephane Fitch, Giám đốc Forbes châu Âu

 

Tôi đọc Nghệ thuật đầu tư Dhandho liền một mạch vì không kìm lòng nổi. Mohnish chia sẻ những “bí mật” tạo nên thành công bứt phá của mình và ghi công vào kho tàng đầu tư giá trị.

-  Whitney Tilson, quản lý điều hành kinh doanh và sáng lập quỹ T2 Partners LLC, nhà sáng lập Hội nghị đầu tư giá trị (Value Investing Congress)

 

Nghệ thuật đầu tư Dhandho đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đơn giản hóa chiến lược đầu tư thành công. “Ngửa thì tôi thắng, sấp thì tôi chẳng thiệt bao nhiêu!” Tôi không phải mua toàn bộ doanh nghiệp, mà chỉ cần mua cổ phiếu của một vài doanh nghiệp đang niêm yết. Tôi muốn giới thiệu cuốn sách này cho bất cứ ai muốn trau dồi kỹ năng đầu tư của mình. 

-  Pattrick Fitzgerald, Chủ tịch của quỹ Fitzgerald Management

góc nhìn alan - bộ di sản alan phan

Góc Nhìn Alan - Bộ Di Sản Alan Phan

“Từ năm 2007 đến nay, tôi thường xuyên về Việt Nam. Sau 42 năm miệt mài trong môi trường kinh doanh Trung Quốc và trước đó, ở Mỹ, tôi thực sự thấy chán thức ăn và con người Trung Quốc; cũng như lối sống vội vã và sự ngạo mạn của người Mỹ. Tôi muốn tìm một điều gì đó khác hơn và hy vọng Việt Nam sẽ là một “quê hương thực sự” cho phần đời còn lại của mình.

Những vấn đề kinh tế, xã hội và văn hóa ở Việt Nam rất giống những gì tôi từng thấy ở Trung Quốc 15 năm về trước, hay Thái Lan, Mã Lai… 30 năm về trước. 

Tuy vậy, có một điều khác biệt: tôi không sinh ra hay lớn lên tại Trung Quốc hay Thái Lan, Mã Lai… nên tôi chỉ cười với những người nước ngoài khác khi họ phê bình hay giễu cợt điều gì đó nghịch lý và thua kém của dân bản xứ, nhưng với Việt Nam, nơi tôi gọi là “quê hương”, điều này thường làm tôi đau lòng và trăn trở…”

Bộ sách gồm 4 cuốn được biên tập từ 6 tác phẩm của Tiến sĩ mang tên: Đừng hoang tưởng về biển lớn, Một tư duy khác về kinh tế xã hội Việt Nam, Không có bữa ăn nào miễn phí, Góc nhìn Alan kinh tế, Niêm Yết sàn Mỹ và 42 năm làm ăn tại Mỹ và Trung Quốc.

bộ các vị thần của đỉnh olympus - phần 3: dấu hiệu athena (tái bản)

Các Vị Thần Của Đỉnh Olympus - Phần 3: Dấu Hiệu Athena

Trong cuốn Con Trai Thần Neptune, Percy, Hazel và Frank đã gặp nhau ở Trại Jupiter, trại của người La Mã, tương đương như Trại Con Lai, và cùng nhau đi tới miền đất xa xôi hơn cả các vị thần để hoàn thành một hành trình tìm kiếm đầy hiểm nguy. Còn cuốn Dấu Hiệu Athena sẽ cho họ hội ngộ với Jason, Piper và Leo. Nhưng mới có sáu người bọn họ - ai sẽ hoàn thiện lời tiên tri Nhóm Bảy?

Các á thần Hi Lạp và La Mã sẽ phải phối hợp với nhau để đánh thắng lũ khổng lồ do Mẹ Đất, Gaea, thả ra. Rồi họ sẽ phải cùng nhau vượt biển tới miền đất cổ xưa để tìm Cửa Tử. Chính xác thì Cửa Tử là gì vậy? Phần lớn lời tiên tri vẫn còn là một bí ẩn...

Với những người bạn cũ và mới hợp sức, với một chiến thuyền tuyệt hảo, với những kẻ thù đáng sợ và khung cảnh ngoại lai kỳ thú, Phần 3 series Các anh hùng của đỉnh Olympus này hứa hẹn đem tới cho bạn đọc một cuộc phiêu lưu khó quên khác qua tài năng kể chuyện bậc thầy của Rick Riordan.

Những giấc mơ đáng sợ và những lời tiên tri bí ẩn là những hiểm nguy mà bảy á thần tuổi thiếu niên phải đối mặt, nhưng cũng là những khoảnh khắc lý thú của các bạn đọc hâm mộ series Các anh hung của đỉnh Olympus. Cuốn sách thứ ba này lại một lần nữa quăng Percy, Jason, Annabeth, Hazel, Leo, Frank và Piper vào trận chiến. Đại diện của cả hai trại Hi Lạp và la Mã, bảy người đồng đội sẽ thực hiện nhiệm vụ ngăn chặn việc Rome sắp bị hủy diệt, sự thức dậy của Gaea và sự tận thế của thế giới. Đồng thời họ cũng hỗ trợ Annabeth trong hành trình tìm kiếm của cô để đoạt lại bức tượng Athena cổ xưa từng bị đánh cắp khỏi điện Parthenon. Trên đường đi, họ gặp phải Nemesis ở bang Utah, Bacchus ở Kansas, Phorcys ở Atlanta, Aphrodite ở Charleston, và Hercules ở Eo biển Gibraltar. Xuyên suốt cuốn tiểu thuyết, tính hài hước và rùng rợn luôn song hành khiến cả hai lối viết trở nên sống động hơn. Các á thần vận dụng nhuần nhuyễn sự khôn khéo và các vũ khí của mình trong hàng loạt các cuộc đụng độ, và sự bất an của chính họ khiến cho các nhân vật trở nên thu hút hơn. Với tiết tấu kể chuyện đầy gay cấn, Riordan thực sự đã một lần nữa sáng tạo ra một cuộc phiêu lưu đầy sức hấp dẫn, lôi cuốn cho đến tận phút cuối cùng.

linh hồn của tiền - the soul of money

"Một cuốn sách thay đổi cuộc đời. Với sự ấm áp, trung thực và cách kể chuyện, Lynne đã đảo lộn mọi thứ chúng ta nghĩ rằng chúng ta biết về tiền bạc Đó là cuốn sách mà tất cả chúng ta cần ngay bây giờ." ―Brené Brown, Tiến sĩ, tác giả của sách bán chạy số 1 trên New York Times "Rising Strong"―

Linh Hồn Của Tiền là một cuốn sách hấp dẫn, đưa ra một chủ đề thú vị: xem xét thái độ của chúng ta đối với tiền ― kiếm được, chi tiêu và cho đi ― có thể cung cấp cái nhìn sâu sắc đáng ngạc nhiên về cuộc sống, giá trị của chúng ta và bản chất của sự thịnh vượng.

Thông qua những câu chuyện cá nhân và lời khuyên thực tế, nhà hoạt động toàn cầu Lynne Twist chứng minh cách chúng ta có thể thay thế cảm giác khan hiếm, tội lỗi và gánh nặng bằng những trải nghiệm về sự đủ đầy, tự do và mục đích.

Twist có một cái nhìn chân thực và phê phán về sức mạnh phi thường mà tiền mang lại cho cuộc sống của chúng ta và ảnh hưởng sâu sắc và thường xuyên phá hoại của nó đối với hình ảnh bản thân và các mối quan hệ của chúng ta. Trong một xã hội tiêu dùng coi trọng sân cỏ, bán hàng và ham muốn vô độ để được nhiều hơn như một thước đo giá trị bản thân? Linh hồn của Tiền bạc? yêu cầu chúng ta lùi lại, kiểm tra mối quan hệ của chúng ta với tiền bạc, đánh giá mối liên hệ của chúng ta với các giá trị cốt lõi của con người, và thay đổi mối quan hệ này và bằng cách đó, để biến đổi cuộc sống của chúng ta.

Về tác giả

Lynne Twist là người đồng sáng lập của The Pachamama Alliance, và là người sáng lập của Học viện The Soul of Money. Cô đã dành nhiều thời gian để tham gia và các chương trình xóa đói giảm nghèo và các chương trình bảo vệ xã hội và môi trường.

Bà cũng đã từng được phỏng vấn bởi nhiều cơ quan truyền thông: The Huffington Post, “Mehmet Oz Radio,” Oprah and Friends Radio, NPR, The Chicago Tribune, The San Francisco Chronicle và PBS.

Linh Hồn Của Tiền - The Soul of Money là tác phẩm nổi tiếng của bà. Cuốn sách là những khám phá tràn đầy cảm hứng và trí tuệ về sự kết nối giữa tiền bạc và một cuộc sống toàn vẹn. 

Cuốn sách phù hợp với những độc giả:

Muốn khám phá mối liên hệ giữa tiền bạc và cuộc sống viên mãn

Giành lại quyền làm chủ đối với sức mạnh của đồng tiền ở cuộc sống hiện tại

Nhận thức về "dòng chảy của tiền bạc", cách tạo nên sự giàu có vật chất và cả tinh thần

Củng cố thêm niềm tin về ý nghĩa của việc cho đi, làm từ thiện với số tiền mình đang có

Tái khẳng định lại khái niệm “đủ đầy” và những quan điểm sai lầm về "sự thiếu thốn"

Độc giả nói gì về quyển sách này?

“Linh Hồn Của Tiền là một cuốn sách mang tính đột phá. Nó sẽ định hình lại mối quan hệ của bạn với tiền bạc theo cách vô cùng độc đáo, sâu rộng, có tầm nhìn và nhất quán với tương lai mới mà tất cả chúng ta đang mơ ước. Cuốn sách này dành cho bất kỳ doanh nhân nào đủ tỉnh táo nhận thấy được tầm quan trọng của kinh doanh trong việc tạo ra một tương lai bền vững”

- Heidi Koizen, nhà đầu tư mạo hiểm, đại sứ Công nghệ, và đồng sáng lập của T/Maker -

“Linh Hồn Của Tiền đã giúp tôi hiểu rằng: tiền không tốt cũng không xấu, mà nó là một nguồn lực để chúng ta thể hiện lòng nhân đạo của mình. Bất cứ ai đang muốn cải thiện mối quan hệ của họ với tiền bạc đừng bao giờ nên bỏ qua quyển sách này”. - Sam Polk, cựu thương nhân quỹ đầu tư và người sáng lập tổ chức phi lợi nhuận Groceryships. -

"Bằng sự nhạy cảm tinh tế, Linh Hồn Của Tiền chỉ ra rằng cách chúng ta đối xử với bản thân và cách chúng ta sử dụng tiền bạc là hai mặt của một đồng tiền. Lynne Twist đã trả lại ma thuật cho tiền khi nhận thức tiền là một dạng năng lượng mà với chúng, ta có thể tạo nên những điều kỳ diệu". - James Garrison, Chủ tịch Diễn đàn thế giới -

"Trong một quốc gia và một thế giới bị phân chia sâu sắc hơn bao giờ hết giữa có và không có, nơi mà mong muốn của các triệu phú được ưu tiên trước những nhu cầu của trẻ em và người nghèo, Linh hồn của Tiền nhắc nhở chúng ta rằng khi mải miết chạy theo tiền, bạn sẽ tìm ra điều bạn thực sự quan tâm và rằng những lựa chọn sẽ dẫn đến một con đường mớ"  - Marian Wright Edelman, Chủ tịch Quỹ bảo vệ trẻ em -

Mục lục

Phần Một: TÌNH YÊU, LỜI NÓI DỐI VÀ SỰ THỨC TỈNH

1. Tiền Và Tôi, Tiền Và Chúng ta

2. Bước Vào Ấn Độ:

Trung Tâm Của Nạn Đói, Linh Hồn Của Tiền.

Phần Hai: THIẾU THỐN VÀ ĐẦY ĐỦ: CÔNG CUỘC TÌM KIẾM SỰ GIÀU CÓ THỰC SỰ

3. Thiếu Thốn: Chỉ Là Một Lời Nói Dối

4. Sung Túc Đủ Đầy: Sự Thật Bất Ngờ

Phần Ba: BA SỰ THẬT VỀ SỰ ĐẦY ĐỦ

5. Tiền Giống Như Nước

6. Những Điều Bạn Trân Trọng Sẽ Tăng Giá Trị

7. Hợp Tác Tạo Ra Sự Thịnh Vượng

Phần Bốn: THAY ĐỔI GIẤC MƠ

8. Thay Đổi Giấc Mơ

9. Tuyên Bố Lập Trường

10. Sức Mạnh Của Giao Tiếp

11. Tạo Ra Di Sản Là Sự Đầy Đủ

12. Xoay Chiều

chatter - trò chuyện với chính mình

CHATTER - TRÒ CHUYỆN VỚI CHÍNH MÌNH

Chatter - Trò chuyện với chính mình là sự kết tinh của những nghiên cứu khoa học mới nhất về bộ não và tâm trí con người. Trong Chatter - Trò chuyện với chính mình, tác giả Ethan Kross đã khéo léo hệ thống hóa những tri thức khoa học đó và minh họa chúng bằng những câu chuyện hết sức thú vị khiến ta có cảm tưởng mình đang được xem những bộ phim bom tấn của Hollywood. Không dừng lại đó, tác giả còn chắt lọc ra những phương pháp hết sức cụ thể để ta có thể ứng dụng một cách dễ dàng vào đời sống hằng ngày của mình.

Nếu bạn đã từng cảm thấy bế tắc, tuyệt vọng, chán nản vì công việc, vì những mối quan hệ cũng như vô số những áp lực vô hình khác của cuộc sống hiện đại, bạn sẽ bất ngờ với lợi ích từ những phương pháp mà quyển sách này mang lại. Đó là bí quyết mà rất nhiều người thành công đã sử dụng, và khoa học đã chứng minh là nó hữu ích với mọi người: sử dụng tiếng nói nội tâm như một người dẫn đường tuyệt vời.

Trong các trang sách của Chatter - Trò chuyện với chính mình, bạn sẽ được hòa mình vào thế giới đầy thú vị của những con người ở khắp nơi trên thế giới, từ một mật vụ Mỹ cho đến những thổ dân Trobrianders và rất nhiều người bình thường lẫn nổi tiếng trên thế giới. Nhà văn Marcel Proust từng nói: “Chuyến du hành kì thú nhất không phải là cuộc phiêu lưu đến những miền đất lạ mà là khi ta nhìn sự việc cũ với một cái nhìn mới”. Chúc bạn có một cuộc hành trình lý thú vào thế giới đầy bí ẩn của tâm trí con người. Từ đó, hy vọng bạn sẽ khám phá được những hạt ngọc quý giá trong chính tâm hồn mình và khai mở được sức mạnh tiềm ẩn tự thân để đạt được những gì bạn mơ ước.

đường về chân hạnh phúc

ĐƯỜNG VỀ CHÂN HẠNH PHÚC: MỘT TẶNG PHẨM CÓ GIÁ TRỊ TRONG CUỘC SỐNG HỮU HẠN

Đường về chân hạnh phúc là tuyển tập thứ ba của Thầy Như Nhiên Thích Tánh Tuệ, sau hai tuyển tập được công chúng hoan hỷ đón nhận là An nhiên giữa những thăng trầm và Nhẹ gánh ưu phiền.

Đường về chân hạnh phúc tập hợp những bài thơ, những bài văn mang giá trị tinh thần cao và có ý nghĩa thiết thực cho sự tu tập tìm về với Chân, Thiện, Mỹ.

Hạnh phúc đích thực đến từ sự cảm nhận, từ tâm hồn, từ trái tim biết yêu thương, biết sẻ chia và biết đồng cảm với cuộc đời. Nó luôn ẩn chứa nơi nội tâm của mỗi con người chúng ta. “Hạnh phúc không ở đâu xa xôi, Hạnh Phúc đang ở đây, ngay lúc này. Điều quan trọng là đôi mắt bạn có nhìn ra, trái tim bạn có cảm nhận được niềm hạnh phúc ấy không”.

Tâm hiểu biết và thương yêu chính là con đường đi đến hạnh phúc đích thực. Như Nhiên Thích Tánh Tuệ là vị Thầy dung dị mang vẻ đẹp của bậc chân tu, một con người bình thường nhưng mang trái tim của một vị Bồ Tát. Giữa cơn đại dịch của nhân loại, Thầy căng buồm con thuyền Tâm, chuyên chở yêu thương, hạnh phúc đến bao kiếp người. Đó là lẽ sống.

Được sống là hạnh phúc lớn. Thế nên ta phải sống thế nào cho có ý nghĩa trong cuộc đời mong manh này. Có lẽ đây là cách Thầy Như Nhiên Thích Tánh Tuệ đã cảm nhận cuộc sống và chọn sống nên mới có được những vần thơ, bài văn sâu lắng đến vậy trong các tuyển tập.

Dòng đời là chuỗi dài những buồn vui, khổ đau, âu lo, phiền muộn, bất an,... Tìm được hạnh phúc thật không hề dễ dàng. Nếu bạn biết lấy khổ làm vui, biết biến đau thương thành hạnh phúc, biết hài lòng với những gì mình đang có, biết không ngừng tích lũy hiểu biết, biết yêu thương, sống chân thật, thì tất cả mọi điều sẽ biến thành niềm vui, niềm hạnh phúc bất tận trong trái tim bạn.

Nếu Tâm chỉ biết hơn thua giữa cuộc đời vô thường, đời bạn sẽ dâu bể.

Nếu Tâm tự tại, an nhiên, thong thả rong chơi giữa cõi tạm nhân gian, đời bạn sẽ hạnh phúc, an yên.

Đường về chân hạnh phúc, cuốn sách nhỏ bạn đang cầm trên tay là nguồn cảm hứng vô tận, giúp chuyển hóa nhận thức, thay đổi cách nghĩ cách nhìn. Từng vần thơ, câu văn là kết tinh của những tháng ngày miệt mài lao động, nghiên cứu và tu tập của tác giả. Thế nên, bừng lên từ mỗi trang sách là ngọn lửa soi sáng cõi lòng tăm tối, giúp ta tìm được giá trị đích thực của cuộc sống và chân hạnh phúc!

– Thích Nữ Huệ Lạc

TRÍCH ĐOẠN HAY TRONG ĐƯỜNG VỀ CHÂN HẠNH PHÚC - NHƯ NHIÊN THÍCH TÁNH TUỆ

“Bạn biết không, những khổ đau trong cuộc đời này giống như muối bỏ vào đời chúng ta vậy. Số lượng muối luôn giữ nguyên, nhưng khối lượng khổ đau chúng ta phải thọ nhận còn phụ thuộc vào dung tích chiếc bình chứa, tức là tâm tư của ta.”

---

“Đời quá ngắn thương nhau còn chưa đủ

Bận lòng chi bao oán hận bâng quơ.”

---

“Ngày xưa, vẫn nghĩ rằng tình yêu là mãi mãi, là điều quan trọng nhất trong cuộc đời. Bây chừ, mới biết rằng tình yêu đến đó rồi đi đó, như mưa bóng mây. Tình dù có đậm sâu, mãnh liệt như chớp bể mưa nguồn thì cũng có đó rồi mất đó.

Ngày xưa, tưởng rằng hạnh phúc là điều gì đó xa xôi lắm. Bây chừ, mới biết hạnh phúc chỉ đơn giản là những thứ bình dị xung quanh ta, có chăng là ta chưa nhận thấy.

Ngày xưa, tưởng rằng thành người lớn là lớn. Bây chừ, đã thấy có nhiều người lớn mà vẫn chưa thật sự trưởng thành, người đời thường bông đùa đó là trẻ nhỏ... sống lâu năm.”

bé học lễ giáo - đáng tin cậy (sách song ngữ anh - việt)

Bạn có biết “tất cả trẻ con đều là người ngoại quốc” khả năng học ngoại ngữ của trẻ sẽ trở nên dễ dàng hơn nếu được tiếp xúc từ nhỏ. 

Bộ sách song ngữ: Bé học lễ giáo - Tuyển tập những câu chuyện lễ giáo dành cho trẻ từ 6 đến 11 tuổi - là một trong những nỗ lực của người biên soạn nhằm giúp các em có thêm kênh tương tác với Anh ngữ, một cầu nối cần thiết trong việc phát triển bản thân vững tin bước vào thế giới.

Bộ sách Tuyển tập những câu chuyện lễ giáo dành cho trẻ từ 6 đến 11 tuổi - gồm mười quyển, tương ứng với mười đức tính cơ bản mà trẻ cần có - Kiên trì, Biết ơn, Lịch sự và Tôn trọng, Yêu thương, Vị tha và Trắc ẩn, Tinh thần trách nhiệm, Khiêm nhường, Tử tế, Trung thực, Đáng tin cậy. 

Bằng ngôn ngữ trẻ em trong sáng, giản dị kết hợp những hình ảnh minh họa đẹp mắt, mỗi cuốn sách trong Tuyển tập những câu chuyện lễ giáo dành cho trẻ từ 6 đến 11 tuổi đều là những bài học nhỏ, giúp các em biết cách ứng dụng vào tình huống thực tế ngoài cuộc sống và rèn luyện đức tính tốt: kiên trì, biết ơn, tinh thần trách nhiệm, tử tế, trung thực…

Từng chủ đề trong bộ sách sẽ cung cấp nhiều từ vựng căn bản dành cho trẻ em. Mỗi tập chứa gần 100 từ vựng tiếng Anh thông dụng giúp các em trao dồi và nâng cao khả năng học ngoại ngữ. 

Bạn Rùa kiên trì – kiên trì nghĩa là mình vẫn tiếp tục cố gắng, dù mọi thứ thật khó khăn.

Bạn Mèo biết ơn – biết ơn nghĩa là mình cảm ơn vì những gì mình có và mình tìm cách để thể hiện lòng biết ơn đó.

Bạn Hưu cao cổ Tinh thần Trách nhiệm - tinh thần trách nhiệm nghĩa là mình làm những việc cần được làm.

Bạn Khỉ Tử tế - Tử tế nghĩa là mình vui vẻ sẻ chia hoặc cho người khác những gì mình có.

Bạn Gấu Trung thực – Trung thực nghĩa là luôn luôn nói sự thật và chỉ nói sự thật mà thôi…

Bước vào thế giới của những nhân vật này, các em hiểu rằng những việc mình làm, những điều mình nói, những lời hứa, những cách cư xử…của bạn Rùa, bạn Mèo, bạn Hưu, bạn Khỉ, bạn Gấu đều có lý do “rất đúng” để học và làm theo. 

Nếu bạn đang tìm một món quà dành tặng các em hãy nghĩ đến bộ sách song ngữ: Bé học lễ giáo và Tuyển tập những câu chuyện lễ giáo dành cho trẻ từ 6 đến 11 tuổi. Sách luôn là món quà tuyệt vời nhất, giúp phụ huynh ươm mầm nuôi dưỡng những hạt giống tốt trong tâm hồn các em. 

bé học lễ giáo - lịch sự và tôn trọng (sách song ngữ anh - việt)

Bạn có biết “tất cả trẻ con đều là người ngoại quốc” khả năng học ngoại ngữ của trẻ sẽ trở nên dễ dàng hơn nếu được tiếp xúc từ nhỏ. 

Bộ sách song ngữ: Bé học lễ giáo - Tuyển tập những câu chuyện lễ giáo dành cho trẻ từ 6 đến 11 tuổi - là một trong những nỗ lực của người biên soạn nhằm giúp các em có thêm kênh tương tác với Anh ngữ, một cầu nối cần thiết trong việc phát triển bản thân vững tin bước vào thế giới.

Bộ sách Tuyển tập những câu chuyện lễ giáo dành cho trẻ từ 6 đến 11 tuổi - gồm mười quyển, tương ứng với mười đức tính cơ bản mà trẻ cần có - Kiên trì, Biết ơn, Lịch sự và Tôn trọng, Yêu thương, Vị tha và Trắc ẩn, Tinh thần trách nhiệm, Khiêm nhường, Tử tế, Trung thực, Đáng tin cậy. 

Bằng ngôn ngữ trẻ em trong sáng, giản dị kết hợp những hình ảnh minh họa đẹp mắt, mỗi cuốn sách trong Tuyển tập những câu chuyện lễ giáo dành cho trẻ từ 6 đến 11 tuổi đều là những bài học nhỏ, giúp các em biết cách ứng dụng vào tình huống thực tế ngoài cuộc sống và rèn luyện đức tính tốt: kiên trì, biết ơn, tinh thần trách nhiệm, tử tế, trung thực…

Từng chủ đề trong bộ sách sẽ cung cấp nhiều từ vựng căn bản dành cho trẻ em. Mỗi tập chứa gần 100 từ vựng tiếng Anh thông dụng giúp các em trao dồi và nâng cao khả năng học ngoại ngữ. 

Bạn Rùa kiên trì – kiên trì nghĩa là mình vẫn tiếp tục cố gắng, dù mọi thứ thật khó khăn.

Bạn Mèo biết ơn – biết ơn nghĩa là mình cảm ơn vì những gì mình có và mình tìm cách để thể hiện lòng biết ơn đó.

Bạn Hưu cao cổ Tinh thần Trách nhiệm - tinh thần trách nhiệm nghĩa là mình làm những việc cần được làm.

Bạn Khỉ Tử tế - Tử tế nghĩa là mình vui vẻ sẻ chia hoặc cho người khác những gì mình có.

Bạn Gấu Trung thực – Trung thực nghĩa là luôn luôn nói sự thật và chỉ nói sự thật mà thôi…

Bước vào thế giới của những nhân vật này, các em hiểu rằng những việc mình làm, những điều mình nói, những lời hứa, những cách cư xử…của bạn Rùa, bạn Mèo, bạn Hưu, bạn Khỉ, bạn Gấu đều có lý do “rất đúng” để học và làm theo. 

Nếu bạn đang tìm một món quà dành tặng các em hãy nghĩ đến bộ sách song ngữ: Bé học lễ giáo và Tuyển tập những câu chuyện lễ giáo dành cho trẻ từ 6 đến 11 tuổi. Sách luôn là món quà tuyệt vời nhất, giúp phụ huynh ươm mầm nuôi dưỡng những hạt giống tốt trong tâm hồn các em. 

em yêu khoa học - cái xô không đáy (tái bản 2020)

Em Yêu Khoa Học - Cái Xô Không Đáy

Tủ sách Em yêu khoa học gồm những câu chuyện, hoạt động và những trò chơi lí thú, mới lạ dành cho các bạn nhỏ. Qua đó, giúp kích hoạt và nuôi dưỡng đam mê cùng trí tuệ khoa học cho các em.

Trong tập Cái xô không đáy thuộc tủ sách này, nhân vật bé Curly rất dễ thương sẽ dẫn dắt các bạn nhỏ tham gia một loạt các thí nghiệm lí thú cũng những câu chuyện rất rieng của cô bé song cũng được lồng ghép khéo léo những kiến thức, thí nghiệm khoa học dễ thực hiện cũng như những câu hỏi hiếu kì thưởng nảy sinh trong tâm trí trẻ như những câu chuyện đầy màu sắc lung linh về những chú chim sẻ dọc đường, về cầu vồng sẽ biến những cô bé thành cậu bé và ngược lại, về những thanh gươm ma thuật cắt xuyên qua những thế lực huyền bí vô hình.

gốm sài gòn

Gốm Sài Gòn là tên gọi để chỉ một dòng sản phẩm gốm sứ ra đời từ những thập niên đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, trong thực tế việc sử dụng tên gọi “Gốm Sài Gòn” có phần tùy tiện và không có sự nhất trí nhau: hoặc để chỉ chung cho các sản phẩm của tất cả các dòng sản phẩm gốm sứ đã được sản xuất ở Sài Gòn - Chợ Lớn (hiểu là địa bàn thuộc Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay), hoặc để chỉ dòng sản phẩm gốm sứ bạch dứu ra đời vào nửa đầu thề kỷ XX. Dù được dùng theo nghĩa nào, thì dòng gốm Sài Gòn đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào xác định về lịch sử, chủng loại, đặc điể của chúng. Tập sách này là nỗ lực bước đầu nhằm cung cấp những dữ liệu cần thiết để có được hiểu biết cơ bản về Gốm Sài Gòn.

Để biên soạn tập sách nhỏ này, chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ và chỉ dẫn tận tình của các nhà sưu tập gốm Nam bộ.

Nhân đây, xin được gởi lời tri ân; đặc biệt cảm ơn các nhà sưu tập Lê Nhân Kiệt, Huỳnh Thanh Giang, Đỗ Quyê đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi được tiếp xúc với các sản phẩm gốm Sài Gòn để nghiên cứu cũng như chia sẻ những kiến thức liên quan đến dòng gốm sứ này.

Nhóm Biên soạn

hữu phỉ - bản thường (bộ 4 cuốn)

Ở vùng đất Thục Trung thời Hậu Chiêu có một dòng sông Tẩy Mặc nước đen cuồn cuộn, nơi đó có Tứ Thập Bát Trại với một lá cờ Phỉ sừng sững suốt hai mươi năm. Tương truyền rằng, rất nhiều năm trước đây, giang hồ loạn lạc, khi đó Nam đao đại hiệp Lý Trừng “phụng chỉ làm phỉ”, từ đấy về sau xuất hiện Tứ Thập Bát Trại danh chấn giang hồ. Sau khi Lý Trừng qua đời, danh môn giang hồ cũng lần lượt suy bại. Nữ nhi của Lý Trừng là Lý Cẩn Dung đã tiếp quản chức vụ đại đương gia, thành hôn với Chu Dĩ Đường và sinh con gái đặt tên là Chu Phỉ. Chu Phỉ được sinh ra trong thời loạn thế, giang sơn chia cắt đôi bờ Nam Bắc, những huy hoàng và nhiệt huyết sục sôi của thế hệ trước đã dần mai một sau khi Nam đao Lý Trừng qua đời. Năm mười ba tuổi, Chu Phỉ định bỏ nhà, suýt chút nữa mất mạng trên dòng sông Tẩy Mặc, được Nam vương Tạ Doãn cứu sống, kết nên mối lương duyên định mệnh. Ba năm sau, hai thiếu niên tài hoa xuất chúng này lại một lần nữa tương ngộ tại Hoắc gia bảo, vén mở ra những bí mật của các cao thủ tông sư đã ẩn dật giang hồ từ nhiều năm trước. Đồng thời còn bị Bắc Đẩu thất tinh, thuộc hạ của Tào tặc truy sát, họ bị cuốn vào một âm mưu ngấm ngầm thâm độc. Chu Phỉ dựa vào “Phá tuyết đao” danh chấn thiên hạ, với tính tình cương trực ngay thẳng, đã tô thêm một nét màu đậm đà đẹp đẽ trong bức tranh giang hồ đầy màu sắc.

Cuộc đời của Chu Phỉ sẽ được viết tiếp như thế nào trong chốn giang hồ nhiều sự nhiễu đương? Mời các bạn độc giả đón bộ truyện Hữu Phỉ được phát hành độc quyền bởi Saigon Books!

mở mắt mà mơ

Tập sách là tập hợp những giấc mơ của con người trước số phận và cuộc sống. Có giấc mơ đẹp đẽ đầy hy vọng, có cả cơn ác mộng ám ảnh không thể quên. Những giấc mơ bắt đầu từ hiện thực (giấc mơ kiếm tiền, giấc mơ sống yên ổn, giấc mơ tha thứ cho nhau...) chuyển mình qua từng cảm xúc mơ hồ (giấc mơ về tổn thương quá khứ, giấc mơ về những ký ức đau buồn...), tiến đến những câu chuyện huyền ảo (mượn giấc mơ để thể hiện sự phản kháng thực tại). Mơ, mà mở mắt. Nó nửa thực, nửa ảo; khi bi kịch áp lên vai con người sức nặng. Từng câu chuyện là từng giấc mơ riêng, phản ánh những khát vọng và nỗi sợ. Nhưng suy cho cùng, đó vừa là điểm tựa, vừa là lối thoát. Vì sau cơn mơ, người ta sẽ phải tỉnh dậy.

Trích đoạn:

Dưới chân cầu nói dối

Thế giới của riêng cô có ngày bị xâm phạm bởi một người đàn ông. Kẻ lạ mặt đang thoải mái ngồi hút thuốc trên chiếc xe cần cẩu rỉ sét. Điếu thuốc tàn, anh thẳng tay quăng xuống. Cô hốt hoảng chạy lại, giơ gót giày cao gót định giẫm tắt. Gặp lá ướt, gót giày trượt đi, cô té xuống đất ê ẩm. Anh cười khùng khục, không có vẻ gì sẽ bước xuống đỡ cô dậy. Cô tự mình đứng lên, sau khi đã trút bực bội cho tàn thuốc tắt ngấm, chống nạnh quắc mắt nhìn kẻ xâm lấn không gian riêng của mình:

- Ê anh kia, vô chỗ của người ta rồi còn xả rác hả? Lỡ cháy thì sao?

- Ờ, xin lỗi. - Anh nhìn quanh, đúng là nhiều lá khô thật, một tàn thuốc có thể sẽ gây họa. Tuột khỏi xe cần cẩu, anh nổi hứng muốn trêu chọc cô gái trước mặt mình một chút. - Chỗ của cô? Cô mua nó rồi hả?

- Ờ thì chưa. - Cô sững ra, không ngờ anh hỏi câu này. Chắc hẳn đây là loại đàn ông giàu có đáng ghét, thích định giá sở hữu bằng tiền.

- Vậy là sắp mua? - Anh rút điếu thuốc, châm lửa rít khói.

- Không.

- Có ý định mua?

- Không luôn.

- Vậy lấy gì để nói chỗ này của cô hả cô nương lùn tè? - Anh ngửa cổ, mở miệng thả đám khói để chúng bay về trời, cố tình giữ một vẻ mặt đáng ghét.

- Thì tôi tìm ra nó đầu tiên.

- Cô nhún vai, lấy trong túi xách ra tấm bạt ni lông trải xuống đất. - Và tôi cao gần mét bảy nha. Nếu anh muốn, tôi sẽ chia sẻ chỗ này với anh.

Không cần cô mời, anh tự nhiên bước tới ngồi lên chỗ còn trống trên tấm bạt. Cô gái tiếp tục lôi ra một hộp nho khô, chai nước suối, vài ổ bánh mì ngọt. Mở nắp nghiêng hộp về phía anh, cô hất cằm, ăn cho vui.

- Không lên cơn với tôi nữa hả? - Anh bỏ một ít nho khô vào miệng, thay cho khói thuốc. Chúng ngọt tới mức va đập vào cổ họng, nhưng anh vẫn còn thấy sót chút đắng.

- Không. Hơi đâu giận người dưng khi tôi đã nổi điên cả ngày, và mỗi ngày với đủ loại người rồi. - Cô mở nắp chai nước, uống ừng ực không ngần ngại. - Ở đây, tôi muốn mình thoải mái. Và vì thoải mái, nên tôi ở đây.

Anh im lặng nhìn cô, thích thú trước sự kỳ quặc đang toát ra. Có thể vì chưa biết gì về nhau, cô tạo cho anh cảm giác dễ chịu.

- Cô ở đây làm gì?

- Tắm hoàng hôn. - Cô tấn công tới ổ bánh mì ngọt, đưa một nửa cho anh. - Ăn không? Ngon hơn thứ hôi rình anh đang ngậm đó.

Anh bật cười đón lấy, lẩm bẩm, gì mà tắm hoàng hôn, điên thiệt chứ. Nhưng nụ cười của anh  xao động, bị kéo bung ra sắp đứt, khi cô quay sang hỏi:

- Anh là ai, làm gì, ở đâu tới đây?

- Tôi... - Anh cau mày, sự khó chịu dần hiện trên mặt. Anh không muốn người ta biết nhiều về mình, để  từ  đó  đào  sâu  vào  những  thứ  anh  đang  không muốn đối diện.

- Khờ ghê, đâu ai bắt anh nói thiệt. - Cô lấy bánh mì  kẹp  nho  khô,  bỏ  vô  miệng  nhai  nhồm  nhoàm.

- Anh có thể nói dối, nếu muốn. Như tôi, một cô ca sĩ mới nổi đã chán với lịch diễn dày đặc và đám antifan khốn nạn nên trốn ra đây.

đoản thi đông á (trung hoa - korea - việt nam - nhật bản)

TẢN BỘ TRONG VƯỜN ĐOẢN THI

Phan Thị Thu Hiền

Nếu so với sonnet, thể thơ ngắn nổi tiếng, quen thuộc nhất của văn học châu Âu (bài thơ trong hình thức cổ điển có 10 dòng với 140 âm tiết) thì các thể thơ ngắn nhất đồng thời nổi tiếng bậc nhất của văn học Đông Á nhỏ nhắn hơn nhiều.

Bên cạnh tuyệt cú (bài thơ 20 hoặc 28 âm tiết) vốn xuất phát từ Trung Hoa nhưng dần trở thành gần như một gia tài chung trong văn học chữ Hán của khu vực, được thi nhân cả ở Korea, Nhật Bản, Việt Nam thưởng thức và sáng tác thì mỗi nền văn học dân tộc lại có hình thức đoản thi độc đáo, trong ngôn ngữ, văn tự riêng của mình. Có thể kể sijocủa Korea (hình thức quy chuẩn chừng 45 âm tiết), lục bát của Việt Nam (bài thơ 2 câu chỉ gồm 14 âm tiết), haikucủa Nhật Bản (17 âm tiết).Tuyệt cú tương đương với thể rubai (bài thơ cũng 4 dòng) của Ba Tư (Tây Á). Lục bát hai câu thì gần gũi với hình thức bài thơ một sloka (2 dòng, tổng cộng 32 âm tiết) trong văn học Ấn Độ (Nam Á).

Tuy nhiên, có lẽ khắp thế giới không tìm được một khu vực nào khác phong nhiêu các đoản thi, say mê nồng nhiệt và sở trường đặc biệt về các thể thơ này như ở Đông Á.

Các nền văn học Đông Á đều khởi đầu bằng thơ ca. Song, những thể thơ ngắn tiêu biểu không tự nhiên có được ngay thuở ban sơ, mà thường xuất hiện khá muộn về sau.

Tuyệt cú hình thành khoảng thế kỷ VI; sijo, lục bát định hình như một thể thơ vào khoảng thế kỷ XIV; haiku được khai sinh như một hình thức độc lập vào giữa thế kỷ XVII.

Tất cả đều cho thấy con đường đến đoản thi là hành trình trưởng thành, thuần thục của mỗi nền văn học.

Tuy phần lớn các thể thơ ngắn Đông Á đều có nguồn gốc trực tiếp hoặc sâu xa từ bài ca (dân gian), nhưng quan hệ giữa “thi” và “ca” được tiếp nối ở sijo, lục bát lâu dài, chặt chẽ hơn so với tuyệt cú, haiku.

Có thể hình dung tuyệt cú của Trung Hoa như một thế giới tương hỗ chặt chẽ Âm-Dương, hài hòa, đối xứng; haiku của Nhật Bản xây dựng thế cân bằng lệch, cực Dương; trong khi lục bát của Việt Nam cực Âm, nhịp nhàng, uyển chuyển; sijo của Korea mềm mại, linh hoạt.

Như vậy, những bài thơ bốn dòng, ba dòng, hai dòng, hay một dòng của tuyệt cú, sijo, lục bát, haiku, nhìn trên bề mặt, có kết cấu hết sức đa dạng. Tuy nhiên, cấu trúc sâu tạo nghĩa của các thể thơ này lại đồng quy một cách lạ lùng. Cách này hay cách khác, các đoản thi thành công luôn có một bản lề khép lại tâm cảnh/ ý cảnh của phần đầu bài thơ và đột ngột xoay chuyển mở ra trong câu thơ cuối cùng/ ngữ đoạn cuối cùng một tâm cảnh/ ý cảnh khác, mới mẻ tinh khôi, dù cả hai vẫn không ngừng là một thế giới… Toàn bộ phần đầu bài thơ tích tụ, chất dồn năng lượng cho sự thăng hoa, bùng nổ ở câu thơ cuối cùng/ ngữ đoạn cuối cùng.

So sánh với thơ ngắn của các nền văn học khác như vậy, có thể nhận thấy đặc trưng của các đoản thi Đông Á trong sự nhuần nhị, tự nhiên dung nhập cảnh và tình, hòa quyện trữ tình và triết lý, hàm súc mà dư ba.

Tuyệt cú, sijo, lục bát, haiku cùng hàm súc, giàu sức gợi, nhưng thi pháp của mỗi thể thơ lại mang sắc thái khác nhau.

Tóm lại, tuyệt cú của Trung Hoa, haiku của Nhật Bản, sijo của Korea và lục bát của Việt Nam chia sẻ khá nhiều đặc điểm tương đồng có tính loại hình và có tính khu vực. Cả bốn thể thơ đều hàm súc, giàu sức khơi gợi. Cả bốn thể thơ, với những cách thức và mức độ khác nhau đều chịu ảnh hưởng của truyền thống văn hóa Á Đông (Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo...).

Bên cạnh những đặc điểm chung, tuyệt cú, haiku, sijo, lục bát, mỗi thể lại có những đặc trưng biểu hiện bản sắc dân tộc độc đáo. Sijo và lục bát có nhiều điểm gần gũi nhau hơn so với tuyệt cú và haiku. Trong khi tuyệt cú và haikucổ điển, hàn lâm, luật thi nghiêm ngặt thì sijovà lục bát tự nhiên, năng động hơn. Tuyệt cú và haikuchủ yếu là tiếng thơ vô ngã, lôi cuốn bằng sự sắc sảo, chiều sâu tôn giáo - triết học, đậm đà phong vị Thiền tông. Sijo và lục bát lại cất lên lời ca mang giọng điệu trữ tình, nồng nàn sắc thái cá nhân, chinh phục nhờ những vẻ đẹp biến ảo của tâm hồn.

 

Bộ sách tinh tuyển văn chương Đông Á đã xuất bản:

Những mái lều ẩn cư trong văn chương Đông Á (2013)

Những kỳ nữ trong thơ ca Đông Á (2014)

Huyền thoại lập quốc của các nước Đông Á (2014)

Thi tăng Đông Á (2017)

Chuyện tình ma nữ trong truyền kỳ Đông Á (2017)

Thượng Hải – Tokyo – Hà Nội – Seoul trong văn chương Đông Á đầu thế kỷ XX (2017)

Đoản thi Đông Á (2020)

 

Các trích đoạn:

Mai hoa tuyệt cú

梅花绝句

陆游

闻道梅花坼晓风,

雪堆遍满四山中。

何方可化身千亿,

一树梅花一放翁。

Phiên âm:

MAI HOA TUYỆT CÚ

Lục Du (1)

Văn đạo mai hoa sách hiểu phong,

Tuyết đôi biến mãn tứ sơn trung.

Hà phương khả hóa thân thiên ức,

Nhất thụ mai tiền nhất Phóng Ông.

Dịch thơ:

Thơ tuyệt cú về hoa mai

Nghe gió sớm về mai nở bông,

Như làn tuyết phủ khắp non trùng.

Cách chi thân hóa thành muôn ức,

Bên mỗi gốc mai một Phóng Ông.

1. Lục Du (1125 – 1210) tự là Vụ Quan, hiệu là Phóng Ông, quê ở Sơn Âm (nay thuộc tỉnh Chiết Giang). Xuất thân trong gia đình quan lại, sớm tiếp thu được truyền thống văn hóa tốt đẹp và hoài bão ý chí yêu nước. Ông từng thi đỗ tiến sĩ nhưng bị đánh trượt; sau đó ông tòng quân chỉ huy quân đội ở một số địa phương. Lục Du là nhà thơ yêu nước vĩ đại thời Nam Tống, văn võ kiêm toàn, luôn chủ trương chống quân Kim xâm lược.

Ông có tài cả về thơ, từ, tản văn, lại sở trường về sử học. Bình sinh ông sáng tác gần ba vạn bài thơ, nay còn lại hơn 9.000 bài. Thơ ông có nội dung phong phú, tính hiện thực cao và chứa chan tinh thần yêu nước. Phong cách thơ ông trầm hùng, hào phóng; ông sành tất cả các thể thơ, nhất là thất ngôn luật thi.

Tác phẩm có Kiếm Nam thi cảo, Vị Nam văn tập, Phóng Ông từ.

quê nhà yêu dấu

Ký ức về một miền hạnh phúc

Đức Hiển (1)

Trở về dưới cội tùng xưa. Nằm nghe ngàn thu miên man rớt đầy vạt nắng. Trở về thăm mái nhà xưa, đường rêu mờ gót chân em qua đây một mùa.

Trở về gởi lại ngàn sau. Niềm vinh dự đã đi qua kiếp người rộng lớn…

Nay nữa đã hơn 100 ngày mất của Vũ Đức Sao Biển, cầm trên tay tập bản thảo cuối cùng của ông, bất giác tôi lại nhớ bài Cõi tiêu dao ông viết.Tập sách như đưa ta trở về những ngày nguyên sơ nhất của tâm hồn, khi mà tất cả những nỗi lo cuộc đời và nỗi buồn thế sự chưa xâm lấn. Nơi đó, ta sống hồn nhiên cùng cây cỏ, bạn bè, góc vườn, con chó con mèo như ngày xưa bé.

1. Nhà báo Nguyễn Đức Hiển, Phó Tổng Biên tập Báo Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh là đồng nghiệp nhiều năm, là bạn nhỏ và là hàng xóm của nhạc sĩ, nhà văn Vũ Đức Sao Biển.

Quê nhà yêu dấu là cuốn sách mà từ thiếu nhi đến người già ai cũng có thể đọc và thấy mình trong đó. Những câu chuyện giản dị đến độ ta có thể nghĩ không cần phải viết ra nữa. Nhưng, cũng giản dị đến mức ta tự vấn lòng rằng sao lại không viết nó ra, không chia sẻ sự rung cảm nguyên sơ ấy? Rằng, văn chương đâu phải cái gì quá to tát vĩ đại. Đọc, thích, và cảm thấy như một cơn gió lành cho tâm hồn bình yên, cho muộn phiền được gột rửa bởi những vui buồn giản dị.

Nếu có chút gì khổ đau, day dứt trong đó, cám cảnh thiệt thòi trong đó, thì đó là khi ta đọc Nguyệt  cầm. Nỗi cô đơn, nỗi khát khao của một người con gái lỡ thì như bị thổi cháy lên từ lò than ngún khi nghe tiếng đàn của một người ngụ cư mới dọn về ở, vọng từ bên kia dòng kênh. Nó day dứt đến độ ngày nọ chị bơi xuồng qua và tìm đến để làm quen. Đến rồi, chị lặng lẽ về khi biết vì sao tiếng đàn ấy da diết thế: Anh ta bị mù, nên bao nhiêu nỗi lòng gởi hết vào tiếng nguyệt cầm.

Không  giống  với  những  hồi  ức  hằn  sâu  bởi mất  mát, đói nghèo, thiệt thòi mà ta gặp trong nhiều tác phẩm khác, Quê nhà yêu dấucủa Vũ Đức Sao Biển là làng quê xứ Quảng nghèo mà đẫm tình, mà  tha  thiết, mà “giàu có” những hạnh phúc bởi những ký ức mộc mạc. Một ngọn khói lam chiều bên mái tranh cũng đủ gợi những bữa cơm đoàn tụ mà sau này khi trở thành một trung niên mồ côi, ông không còn tìm lại được; cái lạnh thấu xương mùa gió bấc cũng đem về nỗi nhớ những đêm cả nhà quây quần bên ngọn đèn dầu lạc, dầu mù u với nồi khoai sắn, với mùi củi dương đốn từ nổng cát cháy tí tách bổ sung nhiệt lượng vì cái chăn quá mỏng (Mùa đông).

Đọc sách, ẩn sau những câu chuyện tưởng chừng nhỏ nhặt là chất chứa một điều lớn hơn: Sức sống văn hóa của làng quê Việt, mà ở Quảng Nam, cái sức sống ấy như mãnh liệt hơn. Ở nơi mà máy bay trên đầu, giặc ruồng dưới đất người ta vẫn họp chợ. Không có gì để bán để mua, vẫn cứ họp chợ bằng bất cứ thứ gì có thể trao đổi được.

 

Mới hay, người ta đến chợ vì nhu cầu gặp gỡ, chứ không hẳn vì nhu cầu mua bán trao đổi. Người ta họp  chợ  làng  để  giữ  cái  mạch  sống,  cái  sinh  khí của làng (Phiên chợ).

Không  lập  ngôn,  cũng  chẳng  có  mỹ  từ,  tác  giả cứ nhẩn nha kể chuyện, còn người nghe thì tùy vào tâm trạng, vốn sống để mà chỉ nghe chơi hoặc quy chiếu rồi nghĩ sao thì nghĩ. Như trong Người và chim, những  ngày  chăm  con  trai  trong  bệnh  viện,  ông quan sát cái tổ chim trên nhánh cây ngoài bậu cửa, trông  chờ  cái  tổ  ấm  của  đôi  chim được đan xây, ngày nó đẻ và ấp trứng… Rồi ngày con trai xuất viện, ông đã buộc vào cái cửa thông gió một sợi thép để yên tâm rằng sẽ không có ai sau đó mở cái ô cửa ấy, như cách giữ bình yên cho chúng đón đôi chim nhỏ ra đời. Hành vi ấy của nhân vật khiến người đọc yên tâm hơn về tương lai của “gia đình chim”. Nó cũng sẽ khiến người đọc quan tâm và nâng niu thiên nhiên hơn từ những trang viết đó.

Tuổi thơ nghèo, đói và vất vả; làng quê nghèo khổ với giặc giã và thiên tai hạn hán, rồi bão lũ, song hơn hết “tuổi thơ tôi rất đỗi thơ mộng và ngọt ngào”. Tập sách như chút lòng  gởi quê nhà, như một sự tri ân cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn nhạc sĩ, nhà văn Vũ Đức Sao Biển. Ấy là sự tri ân cánh đồng cho lúa chín, là ơn nghĩa quê nhà cho mình ký ức đẹp tươi; là ơn bậc sinh thành đã tảo tần nuôi lớn cả bầy con; là ơn thiên nhiên cho con người từ sinh kế, thú vui lẫn những khi lòng tĩnh lặng như nhiều câu chuyện về những chuyến đi câu (Câu cá U Minh Thượng, Câu cá sông quê, Bùa câu cá). Mỗi sắc hoa trong tập sách cũng là một mảnh ghép giúp ta hiểu thêm tâm hồn tác giả (Bóng hoa sim; Bâng khuâng màu hoa cải).

Giờ thì tâm hồn ông Sao Biển đang viễn du về lại với quê nhà, đang hóng gió dòng Trường Giang hay ngược sông Thu Bồn lên Hòn Kẽm Đá Dừng, rong ruổi chiều thu Mỹ Sơn hay về Tiên Phước, hay theo con sáo về miệt Hậu Giang, Bạc Liêu nơi ông sống một thời trai trẻ.

Tôi không nghĩ tập sách sẽ là một tác phẩm để ta kỳ vọng như một dấu ấn văn chương. Nhưng chắc chắn với những ai yêu mến nhà văn, nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển  thì Quê  nhà  yêu  dấu là  một  lời  tâm  tình để  ta  hiểu  hơn  tâm  hồn  tác  giả. Đọc tập sách này sẽ hiểu và yêu hơn văn chương, âm nhạc của ông, hiểu thêm về con người ông. Hơn thế, nó nhắc ta:

Ai cũng có một quê nhà để thương nhớ, ai cũng có ký ức để vỗ về. Vì vậy Quê nhà yêu dấu không còn là chốn riêng của tác giả, nó là chốn bình yên cho cả người đọc sách.

Sài Gòn, Thu, Canh Tý 2020

 

Trích đoạn Phiên chợ

Họp chợ là họp cho vui chứ thực tế người ta không mua bán gì nhiều mà đôi khi cũng không có tiền để mua bán. Có lẽ, người làng họp chợ như là một nhu cầu chứng minh mình còn sống, làng còn sinh khí.

Năm nào cũng vậy, những ngày cận Tết, trời Tam Kỳ lạnh căm căm. Làng tuy có tên là Kim Đới - đai vàng, nhưng không ai có được một bộ đồ lành lặn tử tế, chứ đừng nói tới chuyện có được một chiếc nhẫn vàng hay thắt đai lưng bằng vàng làm trang sức. Người dân trong làng chỉ mặc một thứ quần áo màu đen, cái màu truyền thống do tiệm nhuộm của ông Đồng nhuộm cho một loại vải tự túc, dệt bằng tay  của  thời  kháng  chiến. Nắng mưa dãi dầu làm cho màu đen trên vai và lưng của mỗi người đều bạc thếch. Vậy là ai cũng như  ai,  ai  cũng  giống  ai,  từ thằng bé như tôi, đến chị phụ nữ, đến người già. Ai cũng mặc một màu đen bạc thếch ra chợ.

Chợ họp vào buổi chạng vạng, dưới rừng dương liễu, nơi ngó ngang qua cái trường  Xóm, gần một mả đá vôi. Máy bay năm đầu của Pháp bay ngang qua vùng này, thấy trường Xóm lợp mái ngói đỏ, đã bắn đại liên ào ạt xuống đó. Trận không kích không làm cho ai chết hay bị thương bởi trường Xóm không có thầy dạy, cũng không có học trò học.

Nó chỉ đứng ở khoảng trống đó cho có lệ bởi những người xây lên nó đã bỏ đi hết. Những người thầy, những  người  có  chữ  nghĩa  đã  rời  làng  đi  kháng chiến đâu đó trên Tam Kỳ. Làng Kim Đới chỉ còn ông bà già, trẻ con và phụ nữ ở lại.

Tuy vậy, họ vẫn họp chợ Tết. Trời lạnh căm. Những người ra chợ đầu quấn khăn, co người lại, hai tay thủ vào trong túi áo. Tội nghiệp nhất vẫn là đôi chân. Ai cũng đi chân trần trên nền cát ẩm ướt. Có người nhà ở gần chợ đem theo một cái ghế vuông, ngồi co chân lên ghế đã là hạnh phúc lắm rồi. Ai nói cũng ra khói. Có thể trông làn hơi khói thoát ra khỏi miệng người, ta hiểu được người ấy nói nhiều hay ít, dài hay ngắn.

 

Trích đoạn Mùa đông

Lá dương rụng xuống, tạo thành một thảm lá trên đồi. Tôi và người anh ruột đem đôi gióng thúng, đôi bồ cào đi cào lá dương khô làm chất đốt.

Mưa cứ rả rích, mãi cả đêm vẫn không tạnh. Ở trong nhà, tôi hình như không nghe được tiếng mưa nhưng nó vẫn có đấy. Những giọt mưa nhỏ như sợi tơ từ mái tranh rơi xuống tấm liếp cửa, rồi từ  liếp cửa rơi xuống hiên nhà, tạo thành những lỗ trũng nhỏ chứa nước. Giọt nước rơi xuống, cứ thánh thót, đều đều và buồn bã.

Trời thật lạnh. Cái lạnh bén như một lưỡi dao sắc, tưởng có thể cắt đứt thịt da. Tấm mền xi-ta nội hóa dệt ở đâu đó trên Tam Kỳ, thường được gọi là xi-ta bà Tân, không đủ  để  chống  lạnh. Đã mặc ở trong một cái áo dài tay, ở ngoài thêm một áo ngắn, đắp tấm mền xi-ta mà tôi vẫn cứ lạnh. Cái lạnh như đâu từ trong xương tủy, trong cột sống lạnh ra. Nó làm cho những ngón tay, ngón chân cóng lại. Nó làm cho hai vành tai và cái lỗ mũi tê buốt.

Tôi nghe người lớn nói ở đâu đó trời quá lạnh khiến người ta rụng luôn lỗ mũi. Tôi chỉ sợ rụng mất mũi bởi nếu như vậy thì khuôn mặt sẽ xấu lắm.

Những đêm lạnh, tôi thường hay bị sổ mũi nhưng sờ lên mặt mình tôi lại rất vui bởi mũi mình vẫn còn đó.

Nhà đóng cửa im ỉm, chỉ chừa một khoảng nhỏ cho không khí vào, đủ để thở. Qua  khoảng trống đó, tôi chỉ có thể nhìn thấy một không gian xam  xám  nhờ  nhờ  vào  ban  ngày.  Sang  đến  ban đêm, cái khoảng trống ấy cũng tối thui. Trong cái lạnh, không khí tưởng đã đặc quánh lại, tràn đầy hơi ẩm ướt.

Mùa đông, có lẽ vạt sim trên nổng cao là lạnh nhất. Phía dưới những cội sim già là các gò mả. Tội nghiệp cho những người đã qua đời. Họ phải nằm dưới mưa, trong cát ướt chờ suốt ba tháng để tới mùa khô tạnh ráo. Không ai đủ can đảm lên nổng để  thắp  cây  hương  cho  họ  trong  suốt  mùa  đông rét mướt này. Thiếu cây hương, thiếu cái mùi khói thơm nhẹ nhàng quyện trong gió, vùng gò mả càng lạnh thêm.

Nước mưa thẩm thấu vào nổng, chảy ra một dòng nước thật trong. Dòng nước ấy chảy vào các bờ  sát,  thành  một  cái  kinh  nhỏ  đổ  thẳng  ra  vạt ruộng. Không biết tự bao giờ, một đoàn cá rô thóc tròn cỡ hạt mít bơi tung tăng trong dòng nước ấy.

Nếu là ở mùa khác, tôi và anh Rứt hàng xóm đã be bờ, làm lờ bắt chúng. Nhưng mùa đông, bước xuống khe nước chịu lạnh không nổi, hai chúng tôi đành thua.

Ruộng đã gặt xong hết, chỉ còn trơ những gốc rạ.  Một  vùng  bình  nguyên  nhỏ  hiếm  hoi  chỉ  còn những vạt dương liễu co ro trong mưa. Cây dương liễu thật cam chịu. Nó lớn lên trong cái làng cát này bao nhiêu đời, cong lưng chịu giông bão mùa đông, khát cổ chịu nóng nực mùa hè mà vẫn sống. Nó gần như là biểu tượng của một đời lao động cần cù mà ngoan cường. Mùa xuân tới mùa thu, gió mát về, nó reo vi vu. Lá dương rụng xuống, tạo thành một thảm  lá  trên  đồi.  Tôi  và  người  anh  ruột  đem  đôi gióng thúng, đôi bồ cào đi cào lá dương khô làm chất  đốt.  Đời  cây  dương  liễu  không  cần  ai  chăm bón. Nó cứ lặng lẽ hy sinh và hy sinh...

tuyển tập văn học nga hiện đại - 12 truyện ngắn đầu thế kỷ 21

Trong thế kỷ 21, công nghệ lao nhanh về phía trước, nhân loại sáng tạo ngày càng nhiều phát minh mới để cải thiện cuộc sống, nhưng điều này không có nghĩa con người trở nên thông minh hơn và có trách nhiệm hơn. Trong “Tin nóng", Dmitry Glukhovsky đã đẩy tình huống đến mức phi lý, khéo léo che giấu những chủ đề đau đớn dưới phép ẩn dụ về sự xuất hiện của một nền văn minh khác...

Anna Starobinets viết về những thứ hoàn toàn khác nhau, chạm đến nhiều vấn đề: gia đình, tôn giáo, du hành về quá khứ, người ngoài hành tinh, việc nuôi dạy trẻ em và sự du cư của linh hồn. Nhưng tất cả những vấn đề này không nằm trong các cốt truyện thông thường, mà là theo cách riêng của cô, độc đáo, hoàn toàn không giống bất cứ thứ gì. Truyện ngắn "Người thực" nằm trong tuyển tập Tuổi giao thời, cuốn sách chứa đựng tất cả những gì cần có của văn chương kinh dị thực sự - những chi tiết đóng băng tâm hồn, đen tối trong sự mù mờ đa nghĩa của nó, những trò chơi và thủ thuật tâm lý, cái chết, huyền thoại...

Truyện ngắn "Rừng" của Zakhar Prilepin được giới thiệu trong tuyển tập này là một tự truyện, chất đầy những gam màu cảm xúc và trải nghiệm của một cậu bé nhớ về cha mình, với tình yêu thương vô bờ, qua lăng kính của chuyến phiêu lưu trên một dòng sông giữa khu rừng đáng kinh ngạc và sợ hãi... Zakhar Prilepin có thể rất khác biệt, một số nhà phê bình chỉ ra phong cách nam tính mạnh mẽ, ngòi bút nam tính mạnh mẽ của ông, trong khi những người khác gọi tác phẩm của ông là văn xuôi dịu dàng nhất, tinh tế nhất, tao nhã nhất...

Trong "Vết mực của Nabokov", chỉ trên vài trang giấy, trước mắt chúng ta thoáng qua một cuộc đời, thậm chí vài cuộc đời. Tiếp tục các chủ đề truyền thống của văn học Nga, với sự chú trọng đến các khía cạnh đạo đức của thế giới quan, Mikhail Shishkin cho thấy hai nhận thức khác nhau với những giá trị khác nhau và sự chọn lựa con đường của mỗi người. Giấy quỳ trong câu chuyện là thái độ đối với Nabokov, người mà hình ảnh chạy xuyên suốt toàn bộ cốt truyện, làm cho tác phẩm trở nên trọn vẹn.

bội tình (tái bản 2020)

Bội tình là tập thơ đầu tay của tác giả trẻ Tạ Uyên. Đáng chú ý, cô là chủ nhân của Fanpage 'Bếp của Mỡ' với những món ăn ngon độc đáo chinh phục cộng đồng mạng.

Ở Bội tình, mọi phụ nữ đều tìm thấy hình ảnh của bản thân mình, là những hoang hoải sau cuộc tình vỡ, là sự chênh vênh giữa cuộc sống, công việc, những mối quan hệ xã hội đè nặng nhưng rồi chẳng biết than thở cùng ai.

Nếu như phần đầu của tập thơ kể về sự bắt đầu và kết thúc tình yêu đầy bàng hoàng và đau đớn của Tạ Uyên thì phần hai - Đời, lại là những áng thơ mang đầy nỗi suy tư về cuộc sống và tình đời. Từng vấp ngã trong tình cảm và cuộc sống, Tạ Uyên trong phần Đời là một người con gái kiêu hãnh và đã đủ trưởng thành để nhận ra điều gì là quan trọng đối với bản thân mình. Cô muốn trở lại là một phụ nữ sống thoải mái, ung dung và tự tại, không bị ràng buộc bởi các khuôn phép xã hội khi cho phép mình được đi đây đó để cảm nhận thêm cái ấm áp của tình người.

“Mình sao khóc vì những người thích trách

Thạch tín nào cũng lấy được mạng người

Mình quá lười để cười rồi lại khóc

Chọc thủng trời mới thấy được mình đau”

 

Hay những câu thơ rất Đời mà tác giả bộc bạch lại rất thơ:

“Mình không mong những điều lớn lao

Vì trời cao hẳn nhiên không đến

Cuộc sống này trìu mến yêu thương

Như vậy thôi đâu có tâfm thường”

 

Để rồi phần cuối -  Chúng Ta là những áng thơ miêu tả về cuộc sống trong thời điểm hiện tại, hạnh phúc từ những điều nhỏ nhoi nhất, như cô cũng đã nói khi mở đầu phần này: “Suy cho cùng, tuổi trẻ của em chia ra hai giai đoạn rõ rệt nhất. Một là khổ vì anh, hai là cố gắng hoàn thiện khi là vợ anh".

 

Ở Bội tình, không có những bài thơ với những tựa bài riêng lẻ, không có những cảm xúc được định thành tên, chỉ có những khoảng đủ rộng để người đọc hiểu đó là những tâm trạng cất lên trong những cảm xúc của Tạ Uyên. 

Trong buổi ra mắt sách, tác giả trẻ chia sẻ cô gom góp các vầng thơ ngẫu hứng của mình bắt đầu từ năm 2012, khi còn ngồi trên ghế đại học. Đó như là những trải lòng vào lúc tối muộn sau những tâm trạng không biết kể cùng ai, là tiếng lòng cất lên giữa những khoảng trống chơi vơi. Dần dần, những bài thơ cứ nhiều dần lên và ở đó những năm tháng thăng trầm được ghi lại và cô nhìn thấy mình đã mạnh mẽ thế nào khi tự đấu tranh với bản thân, tìm cho mình những khoảng an yên nhỏ bé. Đó không chỉ là sự can đảm và quyết đoán mà còn phản ứng mạnh mẽ của một phụ nữ đối mặt với tổn thương và dị nghị cũng như những lời nói cay độc từ xã hội.

vọng âm (tái bản 2020)

Vọng Âm là tập thơ thứ hai của tạ  sau tập thơ Bội Tình được NXB Văn hóa Văn nghệ TP.HCM thực hiện vào tháng 9.2018. Bao gồm 131 bài được chia làm 2 phần: Vọng Âm và Thoát Ly. Đúng như cái tên của mình, Tạ Uyên tập trung khai thác những nỗi lòng từ những cuộc đối thoại hay tâm sự của chính mình, một cuộc đối thoại thành thật với chính bản thân khi người “lắng nghe” không ai khác chính là người trong gương.

Vọng Âm vô cùng thành công trong việc sử dụng những câu thơ ma mị và giàu sức chứa ẩn dụ. Đôi khi chỉ là đôi ba câu “thủ thỉ” phác dòng, nhưng đều chứa đựng suy nghĩ có trọng lượng, đủ sức nặng làm nên mối tương giao giữa những tâm cảm xa lạ. Điều này thể hiện rõ ở phần đầu tiên của tác phẩm, khi tâm tư của Tạ Uyên được xúc cảm hóa trong tiếng nói lặp đi lặp lại hoang đường trong tâm trí, đầy ám ảnh bởi những nỗi buồn và niềm vui không tên. 

“ Vọng Âm tiếng gọi tâm hồn 

Nói đi nhắc lại bồn chồn tâm can 

Trước gương mới thấy bàng hoàng

Giật mình khuất bóng tuổi tàn chiều Xuân 

Nói chuyện như hồn bần thần 

Cười cười khóc khóc hỏi trần thế ơi

Ngã nghiêng nghiêng ngã chơi vơi 

Như say như tỉnh hóa đời mộng du!”

 

Ở phần đầu tiên, mỗi người đọc như được tìm thấy bản ngã của chính mình khi mọi tâm tư cuộc sống được Tạ Uyên bộc bạch vô cùng rõ nét trong các câu thơ chất chứa tâm sự và đầy mãnh liệt. Đặc biệt, những bài thơ không tên - phá vỡ quy chuẩn thông thường của thơ truyền thống cũng góp phần tạo nên khoảng trống suy tưởng độc lập từ người đọc, truyền đạt rõ nét nhất những mảnh tâm trạng đa chiều của tác giả.

Kết thúc những giọt buồn của quá khứ, phần 2 - Thoát Ly không còn tập trung quá nhiều vào những cảm xúc trống vắng, hoang hoải của tiếng lòng chơi vơi giữa cuộc đời. Con người sau khi đã đi trọn một vòng những đau đớn và thử thách thì giá trị cốt lõi nhất là quay về với chính mình, học cách yêu thương và thấu hiểu bản thân.

Và khi “tâm tư đối mặt tâm tư”, cảm xúc trước cuộc sống được chia sẻ và thấu hiểu cũng là lúc tâm khảm tìm được phương hướng “thoát ly” những phiền muộn, điểm sáng cuộc đời được khai mở với tinh thần và niềm tin tươi sáng. 

“Thoát ly đi em! Buông xuống nghiệt ngã này!”

 

Vọng Âm khiến người đọc dễ thấm, dễ đồng cảm bởi chính những còn chữ dung dị mà cũng đậm đà suy tư như thế. Những câu thơ như rung cảm tiếng đời của Tạ Uyên cho người đọc cảm giác về niềm hạnh phúc miên man, của nỗi niềm đau đáu về hiện tại và cả những lời động viên - tự động viên mình và động viên người khác - vượt qua những đắng cay muôn thưở mang tên "cuộc sống" mà con người bao đời nay không ai tránh khỏi.

Thật vậy, ai trong chúng ta cũng có nỗi lòng, và dĩ nhiên ai trong chúng ta cũng có bao nhiêu là điều quý giá. Thế nhưng cho dù “chới với té ngỗn ngang” hay “một mình lang thang giữa bể chứa nước ngột ngạt” thì hãy tin rằng mọi đau khổ rồi cũng sẽ “kết thúc, đừng lo”.

bộ nghe bảo tôi là con gái của vua - tập 5

Nghe Bảo Tôi Là Con Gái Vua là bộ webtoon Hàn Quốc đình đám được Comicola mua bản quyền. Bộ truyện đứng thứ nhất trên bảng xếp hạng Tapas, đồng thời luôn nằm trong top các bộ webtoon ăn khách tại Trung, Hàn, Nhật hai năm gần đây. Với nội dung siêu hài hước cùng những tình huống dở khóc dở cười, truyện đã nhận được nhiều độc giả quan tâm, đón đọc. Comicola là đơn vị duy nhất tại Việt Nam nắm giữ bản quyền tác phẩm. Sắp tới, bộ truyện sẽ được xuất bản và đến gần hơn với độc giả.

Nghe Bảo Tôi Là Con Gái Vua nói về cô gái trẻ Kim Tú Vi đang tận hưởng cuộc sống hạnh phúc cùng người yêu, nữ chính bỗng rơi vào tình huống vô cùng oái ăm khi xuyên không trở thành một nàng công chúa. Những tưởng đây sẽ là một điều may mắn với cô khi được sống trong vương giả nhung lụa, chỉ tiếc cô đã xuyên đến một thế giới với tư tưởng trọng nam khinh nữ vô cùng kì quái. Liệu sự xuất hiện của cô công chúa nhỏ có thể thay đổi định kiến nặng nề và vận mệnh của chính minh?

bộ nghe bảo tôi là con gái của vua - tập 4

Nghe Bảo Tôi Là Con Gái Vua là bộ webtoon Hàn Quốc đình đám được Comicola mua bản quyền. Bộ truyện đứng thứ nhất trên bảng xếp hạng Tapas, đồng thời luôn nằm trong top các bộ webtoon ăn khách tại Trung, Hàn, Nhật hai năm gần đây. Với nội dung siêu hài hước cùng những tình huống dở khóc dở cười, truyện đã nhận được nhiều độc giả quan tâm, đón đọc. Comicola là đơn vị duy nhất tại Việt Nam nắm giữ bản quyền tác phẩm. Sắp tới, bộ truyện sẽ được xuất bản và đến gần hơn với độc giả.

Nghe Bảo Tôi Là Con Gái Vua nói về cô gái trẻ Kim Tú Vi đang tận hưởng cuộc sống hạnh phúc cùng người yêu, nữ chính bỗng rơi vào tình huống vô cùng oái ăm khi xuyên không trở thành một nàng công chúa. Những tưởng đây sẽ là một điều may mắn với cô khi được sống trong vương giả nhung lụa, chỉ tiếc cô đã xuyên đến một thế giới với tư tưởng trọng nam khinh nữ vô cùng kì quái. Liệu sự xuất hiện của cô công chúa nhỏ có thể thay đổi định kiến nặng nề và vận mệnh của chính minh?

bé học lễ giáo - tinh thần, trách nhiệm (sách song ngữ anh - việt) (2020)

Bạn có biết “tất cả trẻ con đều là người ngoại quốc” khả năng học ngoại ngữ của trẻ sẽ trở nên dễ dàng hơn nếu được tiếp xúc từ nhỏ.

Bộ sách song ngữ: Bé học lễ giáo và Tuyển tập những câu chuyện lễ giáo dành cho trẻ từ 6 đến 11 tuổi - là một trong những nỗ lực của người biên soạn nhằm giúp các em có thêm kênh tương tác với Anh ngữ, một cầu nối cần thiết trong việc phát triển bản thân vững tin bước vào thế giới.

Bộ sách Tuyển tập những câu chuyện lễ giáo dành cho trẻ từ 6 đến 11 tuổi - gồm mười quyển, tương ứng với mười đức tính cơ bản mà trẻ cần có - Kiên trì, Biết ơn, Lịch sự và Tôn trọng, Yêu thương, Vị tha và Trắc ẩn, Tinh thần trách nhiệm, Khiêm nhường, Tử tế, Trung thực, Đáng tin cậy.

Bằng ngôn ngữ trẻ em trong sáng, giản dị kết hợp những hình ảnh minh họa đẹp mắt, mỗi cuốn sách trong Tuyển tập những câu chuyện lễ giáo dành cho trẻ từ 6 đến 11 tuổi đều là những bài học nhỏ, giúp các em biết cách ứng dụng vào tình huống thực tế ngoài cuộc sống và rèn luyện đức tính tốt: kiên trì, biết ơn, tinh thần trách nhiệm, tử tế, trung thực…

Từng chủ đề trong bộ sách sẽ cung cấp nhiều từ vựng căn bản dành cho trẻ em. Mỗi tập chứa gần 100 từ vựng tiếng Anh thông dụng giúp các em trao dồi và nâng cao khả năng học ngoại ngữ.

Bạn Rùa kiên trì – kiên trì nghĩa là mình vẫn tiếp tục cố gắng, dù mọi thứ thật khó khăn. Bạn Mèo biết ơn – biết ơn nghĩa là mình cảm ơn vì những gì mình có và mình tìm cách để thể hiện lòng biết ơn đó. Bạn Hưu cao cổ Tinh thần Trách nhiệm - tinh thần trách nhiệm nghĩa là mình làm những việc cần được làm. Bạn Khỉ Tử tế - Tử tế nghĩa là mình vui vẻ sẻ chia hoặc cho người khác những gì mình có. Bạn Gấu Trung thực – Trung thực nghĩa là luôn luôn nói sự thật và chỉ nói sự thật mà thôi…

Bước vào thế giới của những nhân vật này, các em hiểu rằng những việc mình làm, những điều mình nói, những lời hứa, những cách cư xử…của bạn Rùa, bạn Mèo, bạn Hưu, bạn Khỉ, bạn Gấu đều có lý do “rất đúng” để học và làm theo.

Nếu bạn đang tìm một món quà dành tặng các em hãy nghĩ đến bộ sách song ngữ: Bé học lễ giáo và Tuyển tập những câu chuyện lễ giáo dành cho trẻ từ 6 đến 11 tuổi. Sách luôn là món quà tuyệt vời nhất, giúp phụ huynh ươm mầm nuôi dưỡng những hạt giống tốt trong tâm hồn các em.

ai-len - vũ khúc mùa hè

Liam nhìn cây cầu. Trước mắt anh là hình ảnh Fiona tươi vui nhảy thiết hài, kéo anh nhảy chung và bắt anh hứa hằng năm sẽ cùng cô nhảy tại nơi này bởi như vậy sẽ “lãng mạn hơn cả Gerry và Holly”. Câu trả lời trở nên chơi vơi theo nhịp chân của Liam bước lên cầu:

– Cho đến lúc cả hai... không thể tiếp tục đi cùng nhau được nữa...

Di đang xuống cầu để quay về điểm hẹn, ngang qua Liam lúc anh nói lời cuối. Hai ánh mắt vô tình chạm nhau, một sâu thẳm, một trong veo đều phảng phất nỗi buồn.

Hai chiếc xe trước sau cùng đưa du khách đến Glendalough – một thung lũng sông băng thuộc vườn quốc gia hạt Wicklow, nổi tiếng bởi thiên nhiên tươi đẹp và là vùng đất tu viện thời Trung cổ được thánh Kevin thành lập vào thế kỷ thứ 6. Đây được xem là một trong những tu viện Cơ đốc giáo đầu tiên của hòn đảo ngọc lục bảo này. Trải qua hàng trăm năm, chỉ còn nhà thờ đá St. Kevin với tòa tháp tròn nằm trong khu cổ mộ, tĩnh lặng giữa không gian yên bình. Di dạo quanh khu thánh tích rồi men theo đường mòn ra hồ. Nằm ở độ cao 130 mét so với mực nước biển và được bao quanh bởi những ngọn núi, hồ mang chút tịch mịch và bí hiểm với mặt nước phẳng lặng được phủ vây bởi những lớp sương mỏng mờ ảo.

Để du khách có hai giờ tự do khám phá, Liam leo lên ngọn đồi, lướt mắt nhìn cảnh vật xung quanh và hướng ra hồ Glendalough. Đôi mắt anh bị hút bởi dáng ngồi cô đơn của Di ở ven hồ. Từ ngày quen Fiona, trái tim anh chưa bao giờ lỗi nhịp, dù công việc khiến anh luôn tiếp xúc với nhiều nữ du khách xinh đẹp, lắm tiền và đa dạng tính cách từ khắp nơi trên thế giới. Vậy mà giờ đây, anh lại có chút lưu tâm đến một cô gái không nhìn rõ mặt. Liam tự cười mình, có lẽ là chút tò mò mang tính nghề nghiệp, khi thấy một du khách bỏ tiền đi du lịch nhưng lại có vẻ hờ hững với mọi thứ xung quanh. Kinh nghiệm cho biết phần lớn là do tình cảm gây ra. Chỉ có tình cảm mới khiến con người đôi khi từ bỏ mọi thứ, buông bỏ bản thân. Có kẻ sống theo kiểu phá phách, trụy lạc; có người cố tìm quên trong công việc; có kẻ tự gặm nhấm nỗi đau; có người mạnh mẽ đối diện, quyết tâm thay đổi để sống tốt hơn mỗi ngày. Dường như cô gái kia đang ở vùng giao thoa của đối tượng 3 và 4, cố vượt qua nhưng bị hồi ức kìm chế. Còn anh, anh đang ở đâu?

Di đứng dậy, quay người bước đi, bất ngờ thấy dáng Liam chênh vênh trên đồi. Vẻ lãng tử mang chút phong trần tạo chút ấn tượng với cô. “Nếu một ngày nào đó gặp người tài giỏi hơn, quyến rũ hơn Dương thì sao?”, đôi khi Dương hỏi cắc cớ vậy đó. Di mỉm cười: “Thì bỏ đi thôi!”. Và Di đi thật, để lại ánh mắt Liam đằng sau.

có nỗi buồn gieo mầm nhân ái - nhật ký y tá thời covid -19

Tác giả: Iris Lê

Iris Lê tên thật Lê Quỳnh Phương, sinh ngày 1/11/1994, bắt đầu làm thơ từ năm 6 tuổi, đã tốt nghiệp ngành Ytá tại Đại học Nam Úc. Đang làm việc tại Bệnh viện Royal Adelaide, là người mẫu của công ty Finesse Modelling và từng đoạt giải cuộc thi Hoa hậu Áo dài của Adelaide Nam Úc.

“Thay lời tri ân đến những đồng nghiệp của tôi, đã và đang chiến đấu với giặc Covid – 19, quyển sách này như một tập nhật ký, ghi lại hiện thực đau đớn của một giai kỳ mang tính lịch sử kéo theo những sự kiện vô tiền khoáng hậu, và những mất mát lớn về nhân mạng, tổn thất về kinh tế nặng nề. Hy vọng, Covid – 19 sẽ để lại nhiều bài học cho thế giới và là tiền đề để có những kế hoạch phòng chống và kiểm soát dịch bệnh hiệu quả hơn trong tương lai”. – Iris Lê

Có nỗi buồn gieo mầm nhân ái (Nhật ký y tá thời Covid-19)

Tựa

1. Khi nhận lời biên tập và viết Tựacho một tác giả mới, thú thật, bao giờ tôi cũng âu lo. Lo rằng, tác phẩm ấy có “sạch nước cản”, có xứng đáng để giới thiệu với công chúng? Lần này, với tiểu thuyết (hay tự truyện?) của Iris Lê, tâm trạng này vẫn không có gì khác trước. Và tôi đã đọc. Kỳ lạ, ngay từ đầu những dòng chữ của cô có sức hấp dẫn và cuốn hút mãnh liệt. Tôi đọc một hơi. Tôi đọc một lèo. Gấp lại trang bản thảo. Gió hun hút về chiều. Ngoài kia, chiều đã sẫm. Đột nhiên, mơ hồ thấy đâu đó có chút ánh sáng dẫu le lói nhưng vẫn rực rỡ đến nao lòng.

Có nỗi buồn gieo mầm nhân ái của Iris Lê đã đem đến cho tôi cảm giác ấy.

2. Có thể nói rằng, đây là một trong những cuốn sách lấy bối cảnh khi toàn thế giới đang đối đầu, choáng váng với đại dịch COVID-19 đã khiến người đọc ngẫm nghĩ mãi. Iris Lê đã viết với tư cách là người trong cuộc - thông qua nhân vật Mia đấy chăng? Tôi nghĩ thế. Bạn có nghĩ thế?

Hãy đọc đi. Đọc để thấu hiểu thêm tấm lòng của các y, bác sĩ đã tận tụy phục vụ người bệnh. Iris Lê kể thật chi tiết, dù nhỏ nhất từ cách đeo mặt nạ N95 đến lúc phải xa gia đình nhằm tránh lây nhiễm; từ lúc phải đối mặt với sự kỳ thị của người chung quanh đến những buồn vui trong nghề y...

Mà, câu chuyện không chỉ có thế.

Ở đây, còn là những suy tư thầm kín, những suy nghĩ của người Việt xa xứ trong va chạm bản sắc văn hóa khi ngụ cư ở nước ngoài; là sự xáo trộn trong quan hệ cùng một cộng đồng đã diễn ra trong “mùa diệt vong” - mùa COVID; là tình người nương vào nhau trong những ngày tháng đen tối ấy. Từng mẩu chuyện nhỏ đầy kịch tính khiến có lúc ta nhói lòng, thở dài… Iris Lê đã kể lại nhẹ nhàng, không “lên gân”, nhờ thế, bức tranh nhiều tâm trạng, nhiều cảm xúc đã quyện vào nhau hài hòa để lôi cuốn con mắt người đọc phải lướt theo, bám theo từng dòng chữ…

Có thể nói, đây là một tiểu thuyết đáng chú ý khi viết về chủ đề “có nỗi buồn gieo mầm nhân ái”. Ánh sáng nhân ái đó, có lúc mờ đi, nhạt dần nhưng chắc chắn không biến mất trong đời sống này. Vâng, những ngày COVID-19 tại Việt Nam, trong nỗi âu lo của từng nhà, từng người, chúng ta đã chứng kiến nhiều tấm lòng thơm thảo đang cùng cộng đồng chung tay sẻ ngọt chia bùi. Một trong những “sáng chế” ấn tượng, phù hợp với quy định phòng chống dịch, với tôi vẫn là chiếc máy phát gạo miễn phí có tên gọi “ATM gạo” hoạt động 24/24. Hay trong giai đoạn 2 phòng chống dịch tại Việt Nam. “ATM gạo” lại trở thành “ATM khẩu trang”.

Còn tại Úc thế nào?

Iris Lê cho biết: “Bên cạnh những mảng màu đen trong bức tranh toàn cảnh về đại dịch COVID-19 còn có những điểm sáng, dù là rất nhỏ nhưng vẫn đủ để khiến người chiến sĩ nơi tuyến đầu thấy ấm lòng. Đó là những khách sạn bắt đầu mở cửa tài trợ chỗ ở miễn phí cho các y tá và bác sĩ trực tiếp chăm sóc bệnh nhân COVID-19.

Đó là những chiến dịch “Nhận nuôi nhân viên y tế” trên Facebook với hơn chục nghìn lượt thích và theo dõi ở từng bang của xứ sở chuột túi. Tất cả bắt nguồn tại Perth, khi Chris Nicholas bắt đầu một nhóm “Nhận nuôi nhân viên y tế” trên Facebook: “Tôi và mẹ tôi muốn nhận nuôi những nhân viên y tế. Mẹ tôi là một đầu bếp giỏi. Tôi là một giáo viên hưu trí, con cái đã lớn và ở riêng. Nếu bạn cần chúng tôi giúp nấu ăn, đi chợ, giữ trẻ em, hay đảm nhận việc giặt giũ, dắt chó đi dạo, thì hãy liên hệ với chúng tôi qua tài khoản này.

Cảm ơn bạn vì đã ở trong số những người đứng đầu chiến tuyến, chúng tôi luôn nghĩ đến bạn”.Và đó chỉ là một trong số hàng trăm, hàng nghìn những mẩu tin khác tương tự như vậy. Vào những thời điểm đen tối nhất, khi cảm thấy bị kéo xuống đáy của vũng bùn tuyệt vọng, Mia lại click vào những trang Facebook ấy, và cô bất giác mỉm cười, cảm thấy như có những ngọn lửa nhỏ sưởi ấm lòng mình”.

Những ngọn lửa nhỏ ấy, bao giờ cũng hiện diện quanh ta. Đọc xong nhật ký Có nỗi buồn gieo mầm nhân ái (Nhật ký y tá thời COVID - 19), một lần nữa điều hướng thiện này lại càng được xác tín đầy thuyết phục. Các nhân vật như Mia, Xie Liu, Anna, Joan, Faith, mẹ của Mia... trở nên gần gũi trong tình cảm người đọc là còn vì lẽ đó.

3. Đọc một tác phẩm gần như đầu tay của tác giả mới, bao giờ tôi cũng nghĩ về hành trình về sau của họ. Có thể nhìn thấy bằng phán đoán lý tính. Nhìn thấy bằng sự linh cảm. Với Có nỗi buồn gieo mầm nhân ái, tôi linh cảm Iris Lê sẽ còn đi xa nữa, nếu cô bền bỉ nhận lấy công việc viết lách như khí trời để thở, chứ không vì lý do gì khác. Nếu thế, từ đây, cộng đồng viết văn ở hải ngoại đã có thêm một tác giả mới, xứng đáng được gọi nhà văn. Được biết Iris Lê tên thật Lê Quỳnh Phương, sinh ngày 1/11/1994, bắt đầu làm thơ từ năm 6 tuổi, đã tốt nghiệp ngành Ytá tại Đại học Nam Úc. Đang làm việc tại Bệnh viện Royal Adelaide, là người mẫu của công ty Finesse Modelling và từng đoạt giải cuộc thi Hoa hậu Áo dài của Adelaide Nam Úc.

Nếu Iris Lê trở thành nhà văn, điều này có nghĩa gì không? Tôi không biết. Nhưng biết chắc chắn rằng, dù ở chân trời góc biển nào, chúng ta vẫn cần có thêm nhiều nhà văn viết bằng tiếng Việt. Cần lắm. Qua Có nỗi buồn gieo mầm nhân ái, từ sử dụng tiếng Việt đến nỗi lòng của người Việt xa xứ, Iris Lê đã khiến ta “cảm thấy như có những ngọn lửa nhỏ sưởi ấm lòng mình”, lẽ nào ta lại dửng dưng? Hãy nhận lấy. Tôi tin bạn sẽ hài lòng.

LÊ MINH QUỐC (9/8/2020)

Trích đoạn:

CHƯƠNG 1 - Vỡ trận

Mia cảm thấy trời đất như quay cuồng. Bọng đái cô căng đầy, đè vào thành bụng đau anh ách nhưng cơ thể bên trong lại đang kêu gào vì thiếu nước, khô héo như một cái cây mùa nắng hạn. Nhiều giờ đồng hồ đóng mình trong mớ đồ bảo hộ lỉnh kỉnh, dày như vải bố, hai bên gò má của cô hằn lên hai lằn của chiếc mặt nạ N95. Nhìn thoáng qua, trông như hai vết bớt kỳ dị bẩm sinh. Cách đeo mặt nạ đúng là không được để không khí thoát ra ngoài, cũng vì thế mà tạo nên những vết lằn chằng chịt trên gương mặt thanh tú ấy. Nếu ai đã từng sử dụng qua mặt nạ N95 một cách đúng chuẩn sẽ hiểu cảm giác khó thở và đau đớn, khi hai cạnh của chiếc mặt nạ buộc phải được kéo căng và siết chặt vào hai bên gò má. Chỉ cần đeo một vài phút, vùng da ấy sẽ đỏ rát, chứ đừng nói đến đeo trong nhiều giờ đồng hồ liên tục. Thời tiết của Úc đang vào thu, nhiệt độ trung bình là 15 độ C nhưng trên gương mặt Mia vẫn lấm tấm mồ hôi vì nóng.

Thật là kinh khủng khi phải tự ngửi hơi thở sặc mùi hành tỏi của chính mình trong một thời gian dài. Mia đã phải ăn qua loa một chiếc bánh burger của cửa hàng McDonald trước giờ vào ca. Các cửa hàng ăn nhanh luôn mọc rải rác trên đường đi, giá lại rẻ. Tuy nhiên ở thời điểm này, chỉ có một phần tư số cửa hàng mua vẫn còn hoạt động, nhưng cũng chỉ cho thực khách lái xe mang về chứ không được ăn tại chỗ.

Đôi khi Mia tự nhìn mình trong gương và giật mình. Mới có ba tháng mà mọi thứ đã thay đổi một cách chóng mặt như thế sao? Một Mia xinh đẹp, nổi tiếng là hoa khôi của Khoa Bệnh Truyền nhiễm của bệnh viện Westmead, bệnh viện lớn nhất nước Úc, giờ đây đã tàn tạ đến nỗi không còn có thể nhận ra. Gương mặt hơi vuông cá tính kết hợp độc đáo với đôi gò má đầy đặn của trẻ thơ, làn da căng mướt không tì vết và sắc da tươi tắn như búp hoa vừa uống những giọt sương mai, giờ đã được thay bằng một cái đầu lâu khô quắt, hai trũng má hõm sâu. Căng lên trên khung đầu lâu ấy là lớp da xỉn màu, tái nhợt, lấm tấm mụn vì cà phê và những đêm mất ngủ. Đó là chưa kể đến những vết lằn chằng chịt được tạo ra bởi sự ma sát giữa những chiếc nón, những chiếc kính bảo hộ và khẩu trang siết chặt ma sát với làn da mỏng manh.

….

Cô gái mạnh mẽ ấy gần đây đã khóc rất nhiều, khóc vì kiệt sức, khóc vì phẫn nộ với thời thế và cảm thấy bản thân mình lực bất tòng tâm. Việc phải tăng giờ làm, làm ca kéo dài 12 tiếng, liên tục phải đóng mình trong đồ bảo hộ kín mít từ đầu đến chân vừa nóng vừa khó thở khiến đội ngũ y tế phải chịu đựng một lượng áp lực kinh khủng trong mùa dịch. Chưa kể đến việc phải tiếp xúc gần như cả ngày với những người bệnh truyền nhiễm làm tăng thêm sức nặng của sự căng thẳng. Tập thể nhân viên y tế của Úc không chỉ hoang mang vì thực trạng nội tại mà còn bị tra tấn tinh thần bởi nỗi ám ảnh nước Úc rồi sẽ đi vào vết xe đổ của các cường quốc khác như Ý, Anh, Mỹ v.v...Song song với sự căng thẳng từ việc chiến đấu với dịch bệnh, COVID-19 đã kéo theo muôn vàn những nỗi lo toan khác, những nỗi lo toan rất đời thường…

bé học lễ giáo - kiên trì (sách song ngữ anh - việt) (2020)

Bé học lễ giáo - 10 đức tính vàng giúp con lớn lên tự tin bước vào đời

Bạn có biết “tất cả trẻ con đều là người ngoại quốc” khả năng học ngoại ngữ của trẻ sẽ trở nên dễ dàng hơn nếu được tiếp xúc từ nhỏ.

Bộ sách song ngữ: Bé học lễ giáo và Tuyển tập những câu chuyện lễ giáo dành cho trẻ từ 6 đến 11 tuổi - là một trong những nỗ lực của người biên soạn nhằm giúp các em có thêm kênh tương tác với Anh ngữ, một cầu nối cần thiết trong việc phát triển bản thân vững tin bước vào thế giới.

Bộ sách Tuyển tập những câu chuyện lễ giáo dành cho trẻ từ 6 đến 11 tuổi - gồm mười quyển, tương ứng với mười đức tính cơ bản mà trẻ cần có - Kiên trì, Biết ơn, Lịch sự và Tôn trọng, Yêu thương, Vị tha và Trắc ẩn, Tinh thần trách nhiệm, Khiêm nhường, Tử tế, Trung thực, Đáng tin cậy.

Bằng ngôn ngữ trẻ em trong sáng, giản dị kết hợp những hình ảnh minh họa đẹp mắt, mỗi cuốn sách trong Tuyển tập những câu chuyện lễ giáo dành cho trẻ từ 6 đến 11 tuổi đều là những bài học nhỏ, giúp các em biết cách ứng dụng vào tình huống thực tế ngoài cuộc sống và rèn luyện đức tính tốt: kiên trì, biết ơn, tinh thần trách nhiệm, tử tế, trung thực…

Từng chủ đề trong bộ sách sẽ cung cấp nhiều từ vựng căn bản dành cho trẻ em. Mỗi tập chứa gần 100 từ vựng tiếng Anh thông dụng giúp các em trao dồi và nâng cao khả năng học ngoại ngữ.

Bạn Rùa kiên trì – kiên trì nghĩa là mình vẫn tiếp tục cố gắng, dù mọi thứ thật khó khăn. Bạn Mèo biết ơn – biết ơn nghĩa là mình cảm ơn vì những gì mình có và mình tìm cách để thể hiện lòng biết ơn đó. Bạn Hưu cao cổ Tinh thần Trách nhiệm - tinh thần trách nhiệm nghĩa là mình làm những việc cần được làm. Bạn Khỉ Tử tế - Tử tế nghĩa là mình vui vẻ sẻ chia hoặc cho người khác những gì mình có. Bạn Gấu Trung thực – Trung thực nghĩa là luôn luôn nói sự thật và chỉ nói sự thật mà thôi…

Bước vào thế giới của những nhân vật này, các em hiểu rằng những việc mình làm, những điều mình nói, những lời hứa, những cách cư xử…của bạn Rùa, bạn Mèo, bạn Hưu, bạn Khỉ, bạn Gấu đều có lý do “rất đúng” để học và làm theo.

Nếu bạn đang tìm một món quà dành tặng các em hãy nghĩ đến bộ sách song ngữ: Bé học lễ giáo và Tuyển tập những câu chuyện lễ giáo dành cho trẻ từ 6 đến 11 tuổi. Sách luôn là món quà tuyệt vời nhất, giúp phụ huynh ươm mầm nuôi dưỡng những hạt giống tốt trong tâm hồn các em.

sổ tay thực hành 66 ngày thử thách

66 NGÀY THỬ THÁCH  – ĐÁNH BẠI CON QUỶ LƯỜI BIẾNG TRONG BẠN

Mọi người hay nói vui với nhau rằng: Chẳng ai chết đuối trong mồ hôi của chính mình mà chỉ chết chìm trong sự lười biếng. Mồ hôi là phép ẩn dụ cho cố gắng của bạn khi làm việc. Tuy nhiên, mồ hôi đổ ra khi bạn chạy 100m và 10km rất khác nhau, bạn bỏ ra công sức càng nhiều, thành quả đạt được càng rõ rệt. Nhưng dù mồ hôi có đổ nhiều thế nào đi nữa, nó vẫn không thể nhấn chìm bạn. Lười biếng thì ngược lại, bạn càng buông xuôi mình thì bản thân càng dễ lún sâu vào vũng lầy lười nhác, lâu dần, bạn trở thành người sống tùy ý, không có ý chí và nghị lực để làm bất cứ việc gì.

Không ai thích bị người khác gọi là người lười nhác cả, chúng ta sẽ có tâm lý tự vệ và tìm muôn vàn lý do để giải thích rằng: tại sao tôi không học ngoại ngữ, tại sao tôi không thể dậy sớm tập thể dục, tại sao tôi không để dành đủ tiền để đi du lịch,… Thực chất, chúng ta luôn có nhiều việc “trên trời rơi xuống” khiến kế hoạch của mình giữa đường gãy gánh hoặc cảm xúc bị trôi tuột trong vài ngày sau phát biểu hùng hồn của bạn (khi muốn thực hiện một kế hoạch lớn lao nào đó). Điều đó khiến bạn thất vọng với bản thân, xem lời nói của mình “chẳng ra gì”. Lâu dần, bất cứ kế hoạch hay quyết tâm bạn đặt ra đều rất dễ thất bại.

Cái bạn thiếu là sự nghiêm túc, kỷ luật và hào hứng khi bắt đầu xây dựng một thói quen tốt. Đó chính là lí do khiến chúng tôi, muốn dành tặng bạn một quyển sổ tay thực hành “66 ngày ngày thử thách”. Như một người bạn đồng hành và chia sẻ khó khăn của bạn trong quá trình tạo lập một thói quen.

66 ngày thử thách không vẽ ra cho bạn một con đường bạn cần đi, chúng tôi đơn giản gợi ý cho bạn một kế hoạch thử thách chính mình ở 6 lĩnh vực chính cần quan tâm trong cuộc sống như: Thể chất, cuộc sống cá nhân, mối quan hệ, tài chính cá nhân, công việc, kinh doanh và tâm linh. Bạn có thể khoanh vùng thói quen mình đang ấp ủ và lên kế hoạch thực hiện nó. Cuối mỗi tuần thử thách, bạn có thể thoải mái khích lệ, đánh giá và tự hào về những gì bạn đã làm, những thử thách bạn vượt qua.

Nhưng tại sao lại là 66 ngày mà không phải là 33, 99 hay 7×7=49 ngày? Theo nhiều nghiên cứu, 66 ngày là khoảng thời gian tuyệt vời để bạn hình thành và quen với việc sống cùng thói quen mới. Sau 66 ngày, thói quen ấy chính thức trở thành một phần cuộc sống của bạn, bạn sẽ không thấy mệt mỏi hay khó chịu khi thực hiện thói quen, mà xem đó là một việc hiển nhiên, cần thiết và không thể thiếu trong cuộc sống của bạn.

Bạn sẽ thành công trong việc xây dựng thói quen mới khi nghiêm túc thực hiện thử thách 66 ngày (liên tục và không ngắt quãng).

NGOÀI BẠN RA, AI LÀ NGƯỜI PHÙ HỢP VỚI 66 NGÀY THỬ THÁCH?

Tất cả những người xung quanh bạn, người đang cần xây dựng những thói quen tốt nhưng chưa có giải pháp và động lực để thực hiện.

KHI ĐÃ THỰC HIỆN THÀNH CÔNG 66 NGÀY THỬ THÁCH, BẠN NÊN LÀM GÌ? 

1. Chia sẻ câu chuyện câu chuyện của bạn cùng chúng tôi.

2. Truyền cảm hứng cho những người xung quanh, để họ thấy rằng, bạn làm được thì họ cũng sẽ làm được.

3. Tiếp tục theo đuổi các thói quen mới và duy trì thói quen cũ.

“Đừng sợ và đừng lười biếng. Đừng để hối tiếc ám ảnh tương lai. Hãy lên đường. Các bạn không có gì để mất ngoài sự trì trệ.” – TS.Alan Phan

từ bi

Từ bi là một thứ tình thương mát lành, là sự chia sẻ niềm vui của bản thân đến với vạn vật. Từ bi giúp ta trở thành đóa hoa sen, vượt lên vũng bùn của thế giới ham muốn, dục vọng và sự giận dữ.

Dẫn dắt người đọc qua câu chuyện về cuộc đời Đức Phật, Chúa Jesus và những hiểu biết về Thiền đạo, Osho đặt ra thách thức cho các giả định về từ bi là gì và gạt bỏ những sai lầm, định kiến, khám phá ý nghĩa thực sự ẩn sau đó.

“Từ bi không phải là cái mà chúng ta vẫn gọi là tình yêu. Nó mang yếu tố cốt lõi của tình yêu nhưng lại không phải là tình yêu như chúng ta vẫn biết”, Osho viết.

Theo Osho, lòng từ bi đích thực không chỉ đến từ hiểu biết và tôn trọng người đối diện, mà phải bắt đầu từ bên trong - chúng ta cần thực sự chấp nhận và yêu thương bản thân mình một cách sâu sắc. Chỉ như vậy, lòng từ bi mới giúp ta chấp nhận người khác một cách vô điều kiện, giúp chúng ta nhìn nhận chân giá trị của mỗi con người. Khi đó, từ bi giúp ta kết nối được cái sâu lắng nhất bên trong người đối diện - chính là tâm hồn của họ. Khi hai tâm hồn có thể kết nối, một dạng thức cao nhất của tình thương sẽ nảy sinh: từ bi.

Vậy, làm thế nào để có được sự từ bi? Trong cuốn sách này, Osho nhấn mạnh vai trò của thiền. Ông viết: “Nếu không có thiền, nguồn năng lượng trong bạn chỉ tồn tại dưới dạng thức đam mê; nhưng nếu có thiền, nó sẽ chuyển hóa thành lòng từ bi”. Ông cho rằng con người không thể luyện tập để trở nên từ bi, “nếu thiền là một bông hoa, thì từ bi chính là hương thơm”.

Nếu như bạn muốn biết thế nào là từ bi, muốn tìm kiếm cảm hứng, niềm vui và nguồn năng lượng tích cực, hoặc đơn giản là muốn tìm hiểu thêm một đầu sách ý nghĩa khác của Osho, cuốn sách Từ bi chắc chắn sẽ là một lựa chọn sáng suốt.

bút máu

Tác giả: Vũ Hạnh

Tên thật Nguyễn Đức Dũng

Sinh ngày 15/07/1926

Quê quán: xã Bình Nguyên, huyện Thăng Bình, Quảng Nam

Bút danh khác: Hoàng Thanh Kỳ, cô Phương Thảo, Minh Hữu, Nguyên Phủ, A.Pazzi

Các tác phẩm đã xuất bản:

Tuyển tập: Bút máu, Chất Ngọc, Vượt thác, Người chồng thời đại.

Truyện dài: Lửa rừng, cô gái Xà – Niêng, Tính sổ cuộc đời, Con chó hào hùng, Ngôi trường đi xuống.

Tiểu luận, phê bình: Đọc lại truyện Kiều, Tìm hiểu văn nghệ, Cha mẹ bơ vơ, Tuổi trẻ nổi loạn, Người Việt cao quý.

Quá trình hoạt động:

Năm 1945: Tham gia Mặt trận Việt Minh, thành lập đoàn Kịch võ trang tuyên truyền trong Ủy ban Tổng khởi nghĩa giành chính quyền huyện Thăng Bình.

Năm 1946: Khi thực dân Pháp quay lại mong tái chiếm Việt Nam, ông thành lập đoàn Kịch Tuyên truyền kháng chiến, rồi tiếp tục dạy văn ở các trường Thăng Bình, Quế Châu, Phan Chu Trinh.

Năm 1954: Sau Hiệp định Genève, ở lại hoạt động, đấu tranh đòi hiệp thương Bắc Nam và bị bắt giam ở nhà lao Thăng Bình và nhà lao Hội An.

Năm 1956: Cuối 1956, thoát khỏi nhà lao Hội An, vào Sài Gòn, đấu tranh bằng con đường báo chí, được Khu ủy Sài Gòn – Gia Định giao nhiệm vụ hoạt động đơn tuyến công khai ở nội thành Sài Gòn, với bí danh là Ba Thật.

Năm 1966: Vũ Hạnh là Tổng thư ký Lực lượng Bảo vệ Văn hóa Dân tộc, một tổ chức cách mạng thành lập ngay giữa thủ đô ngụy quyền.

Năm 1969: Khi Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam sắp thành lập, ông được giao nhiệm vụ là Bộ trưởng Bộ Văn hóa nhưng trước khi ra vùng Giải phóng một ngày thì bị địch bắt. Đây là lần tù thứ tư trong năm lần dưới chế độ cũ.

Năm 1975: Sau 30/04/1975, ông là Tổng Thư ký Hội Liên hiệp – Văn học Nghệ thuật thành phố Hồ Chí Minh.

Năm 2007: Được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật.

Bút máu

“Bút máu là tập truyện ngắn đặc sắc trong cuộc đời năm chục năm cầm bút của Vũ Hạnh. Bú máu như là tuyên ngôn của tác giả về văn chương nghệ thuật. Mười hai truyện ngắn trong tập sách này toát lên ý chí, nghị lực, lòng nhân ái của một nhà văn dấn thân trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Đọc Bút máu, dù là viết về chuyện xưa hay là trực tiếp nói chuyện đương thời, tôi cảm nhận văn chương Vũ Hạnh luôn tươi rói niềm tin vào cuộc sống, cào tình người; Vũ Hạnh không bao giờ lẫn lộn, thỏa hiệp giữa chính và tà, nhân nghĩa và phi nhân…”  - Nhà văn Triệu Xuân

Trích đoạn:

Bút máu

Giữa mùa xuân ấy, Sinh lâm bệnh nặng, nằm liệt suốt một tháng liền. Tuyết Hồng hết sức săn sóc thuốc thang, nhiều đêm không ngủ. Bây giờ Sinh có lòng mừng là nàng không  biết  làm  thơ,  nhưng  Sinh  ngày  đêm  khắc  khoải  vì không cầm được cây bút. Một ngày không viết được một câu nào, Sinh có cảm tưởng như mình không còn sống nữa. Ngoài nỗi bệnh tật giày vò, Sinh còn bị nỗi băn khoăn sáng tạo hành hạ. Bệnh cũ như muốn tái phát, thần kinh rạo rực không yên, giấc ngủ chập chờn ác mộng. Mấy lần chống tay ngồi dậy, nhưng lại bủn rủn nằm xuống, hơi thở nóng ran như lửa. Một sớm, đang nằm nghe tiếng chim hoàng anh hót ngoài vườn vụt tắt, thấy một tia nắng lọt qua khe cửa chợt tàn, Sinh bỗng hốt hoảng tưởng chừng mùa xuân bỏ mình mà đi, bèn gượng ngồi lên, xô mạnh cửa sổ. Mấy nụ hoa thắm cười duyên trước thềm, lá xanh tươi màu nhựa mới. Sinh bèn gọi đem nghiên bút và tập hoa tiên. Vừa cầm bút lên, Sinh bỗng kinh ngạc: nghiên mực đỏ tươi sắc máu. Thử chấm bút vào, lăn tròn ngọn bút đưa lên, bỗng thấy nhỏ xuống từng giọt, từng giọt thắm hồng như rỉ chảy từ tim. Khiếp đảm, Sinh ngồi sững sờ, tâm thần thác loạn. Cố viết đôi chữ lên giấy, nét chữ quánh lại, lợn cợn như vệt huyết khô trên cát. Sinh vội buông viết, tưởng chừng bàn tay cũng thấm máu đầy. Đưa lên ngang mũi, mùi tanh khủng khiếp. Quệt tay vào áo, đau nhói trong người. Sinh nằm vật xuống, mê man bất tỉnh. Sau mấy ngày Sinh tỉnh dậy, lòng lại  khát  khao  cầm  bút.  Nhưng  nhớ  hình  ảnh  vừa  qua,  tự nhiên đâm ra e ngại. Sinh cố tập trung thần lực, men đến án thư, nhưng vừa cầm bút lại thấy lảng vảng sắc máu, không sao có đủ can đảm vạch được nét nào. Sinh ném bút, hất giấy, vô cùng khiếp sợ tưởng như xôn xao chung quanh vô số oan hồn đòi mạng. Từ đó, Sinh gầy rạc hẳn, liệu không sống thoát.

Người cậu của Sinh từ lâu đã vào trong núi Hoa Dương ở với đạo sĩ họ Trình, một hôm tạt về thăm nhà thấy cháu suy nhược, rất là lo lắng. Sau khi nghe Sinh thuật hết những điều quái dị vừa qua, ông suy nghĩ hồi lâu, rồi nói:

- Ta từng bảo cháu ngòi bút không phải không có oan khiên. Lưỡi gươm tuy ác nhưng mà trách nhiệm rõ ràng, lỗi lầm tác hại cũng có giới hạn. Mượn sự huyễn hoặc của văn chương mà gây điều thiệt hại cho con người, tội ác của kẻ cầm bút xưa nay kể biết là bao, nhưng chẳng qua tội ác mờ mịt nên không thấy rõ hay không muốn rõ mà thôi. Làm cho người gái lớn lên băn khoăn sầu muộn, làm cho trai trẻ đang hăng khinh bạc, hoài nghi, gợi cho người ta nghĩ đến vật dục mà quên ái tình, khêu cho thiên hạ tiếc điều tài lợi mà xa đạo nghĩa, hoặc cười trên đau khổ tha nhân, hát trên bi cảnh đồng loại, đem sự phù phiếm thay cho thực dụng, lấy việc thiển cận quên điều sâu xa, xuyên tạc chân lý, che lấp bần hàn, ca ngợi quyền lực, bỏ quên con người, văn chương há chẳng đã làm những điều vô đạo? Tội ác văn chương  xưa  nay  nếu  đem  phân  tích,  biết  đâu  chẳng  dồn chất thành ngàn dãy Thiên Sơn? Thần tạng của cháu kinh động thất thường, nhưng mà bản chất huyền diệu có thể cảm ứng với cõi vô hình, chắc cháu làm điều tổn đức khá nặng nên máu oan mới đuổi theo như vậy. Hãy xem có lỡ hứng bút đi lệch đường chăng? Soát lại cho mau, soát lại cho mau, chớ để chầy ngày.

người nhà trời

Câu chuyện anh Tư đem hết số tiền dành dụm xây mộ cho cha, mẹ mình, làm quà kính tặng người thầy dạy củ khiến cho Ba Chữ phải suy nghĩ nhiều. Nơi người nông dân còn trẻ tuổi này có những ý tưởng khác với thói tục, và khác biệt ấy mang đậm tính chất hợp lý, hợp tình. Ba Chữ không có trình độ suy diễn xa hơn về các sự việc, song anh mơ hồ cảm nhận là những người Việt tìm về khai thác vùng đất miền Nam mới mẻ, rộng lớn và còn khá hoang vu này đã do hoàn cảnh tác động mà có, nhiều sự cải cách, nhiều sự sáng tạo, họ luôn tìm kiếm mới lạ trong cách suy tưởng, cũng như trong mọi sinh hoạt.

đọc lại truyện kiều

Đọc Lại Truyện Kiều

1
Kiến Thức Chia Sẻ là chuyên trang chia sẻ tài liệu học tập hay và sách PDF miễn phí, giúp người học tiếp cận nguồn kiến thức phong phú và đa dạng. Từ sách giáo trình, tài liệu ôn thi đến ebook chuyên ngành, trang web cung cấp đầy đủ nội dung chất lượng, hỗ trợ học tập hiệu quả. Với giao diện thân thiện và kho tài nguyên cập nhật liên tục, đây là địa chỉ tin cậy cho mọi đối tượng học sinh, sinh viên, và người đam mê tri thức. Truy cập ngay để khám phá và tải sách PDF hoàn toàn miễn phí!

VỀ KIENTHUCCHIASE.COM

icon shopee