Có lẽ, nếu tổ chức một cuộc khảo sát để lập nên một bảng thống kê, so sánh giữa số gia đình hạnh phúc viên mãn với những gia đình bất hạnh, chúng ta sẽ phải chấp nhận một sự thật rằng, những người may mắn có cuộc hôn nhân đầm ấm trọn vẹn chiếm tỷ lệ rất thấp trong xã hội này. Những bất hạnh, đau khổ đa phần đều do chính mình gây ra cho người thân, mà trực tiếp ở đây là vợ chồng, con cái, dẫn đến thương tổn cho những thành viên khác trong đại gia đình và rộng hơn là ảnh hưởng đến cả xã hội.
Những bất hạnh đó bắt nguồn từ các sai lầm, và sai lầm lại là thuộc tính của người phàm. Kinh điển của nhà Phật dạy có hai hạng thánh trong cuộc đời, hạng thứ nhất là chưa từng sơ xuất cũng như lỗi lầm; hạng thứ hai là người biết đứng dậy sau khi vấp ngã và không bao giờ tái phạm. Đức Phật cũng nói, hạng thánh nhân thứ hai mới đáng tôn kính và tán thán hơn cả Khi tìm hiểu kỹ hơn chúng ta sẽ hiểu, Đức Phật thấy rõ tâm lý con người có những lúc rất yếu. Trong lúc tâm lý bị sa sút tới mức độ yếu nhất thì bất kỳ thứ gì đến cũng sẽ trở thành cái nêm gài vào sự trống vắng dẫn dắt con người đến với những sai lầm. Vấn đề ở chỗ người sai biết nhận ra lỗi lầm, không tái phạm mới là con người đáng quý, đáng trân trọng. Nhận dạng và hiểu được điều này thì tất cả những tình huống ngoại tình đều có cơ hội quay về. Quên đi quá khứ của nhau trở thành yếu tố vô cùng quan trọng trong việc cùng nhau làm lại và xây dựng tương lai.
Gia đình - Tranh đấu hay buông xuôi? là cuốn sách thứ 2 trong bộ 3 quyển của Thượng Tọa Thích Nhật Từ. Hy vọng những chia sẻ trong cuốn sách nhỏ này sẽ phần nào giúp quý độc giả tìm được cách giải quyết những xung đột, mâu thuẫn có thể gặp trong cuộc sống của mình.
Bộ sách Thế giới khủng long giúp các em hiểu về những loài khủng long thống trị Trái Đất hơn 165 triệu năm trong suốt Đại Trung Sinh, nhưng chúng đã bị tuyệt chủng vào 65 triệu năm trước. Mỗi cuốn sách trong bộ sách cung cấp những thông tin xúc tích cùng tranh minh họa hấp dẫn sẽ đưa độc giả nhỏ tuổi đi vào chuyến phiêu lưu trở lại thời tiền sử để khám phá và hiểu hơn về loại Khủng long cổ xưa.
Bộ sách Thế giới khủng long gồm 4 cuốn:
Những kẻ nguy hiểm
Những kẻ khổng lồ
Những kẻ nhỏ bé
Sự tiến hóa và khai quật.
Tôi đi tìm tôi - những câu chuyện lan man, những suy nghĩ di gan, những con đường đã đến chưa đi, những bài học vỡ ra nhờ té sấp mặt trên đường đời gập ghềnh, bất định.
Sách chả có cấu trúc, thứ tự xếp hàng ngăn nắp hay văn chương theo khuôn khổ gì. Ai nói, cứ phải xếp hàng theo trật tự người đời sắp xếp? Ai nói, cứ phải lên chuồng xuống chuồng như gà công nghiệp? Hồi xưa, một cái khuôn dập một phát ra chín chục triệu sản phẩm. Giờ, in 3D cá nhân hóa theo thiết kế rồi nha.
Cho nên, sao không tạo ra thứ gì đó mới? Sao không phải là follow your heart – đi theo nhịp đập rất ư là wabi-sabi – không hoàn hảo một cách vô cùng hoàn hảo, để tìm thấy ý nghĩa và sự yên bình trong hành trình tiến tới bằng cách trở về?
**********
Mạch ký ức của quá khứ như công tắc on/off, bạn lựa chọn tắt hay mở cũng như việc chọn giữa quên và nhớ. Đồng hành với hiện tại luôn có quá khứ, bởi nó đều là hai chiều kết dính tạo nên bạn ngày hôm nay. Đối với tác giả Nguyễn Phi Vân trong Tôi đi tìm tôi cũng vậy, quá khứ là những con người từ bốn phương trời mà chị được gặp, bị gặp và tình cờ gặp. “Họ đến, mang theo cơn mưa đầu hạ, giúp tôi nở hoa trên chính mảnh vườn xưa vốn nứt nẻ, khô cằn. Họ đến, để làm tôi đau, cho tôi hiểu thế nào là bóng đêm và vô ảnh. Tôi gật đầu, răn đe mình không được phép trôi về ngõ tối sình lầy. Và tôi thở phào khi họ bỏ ra đi. Họ đến, giúp tôi nhận ra khả năng vô giới hạn của bản thân, giúp tôi phá bỏ mọi thành trì những tưởng là tồn tại”.
Các câu chuyện Nguyễn Phi Vân kể về bạn bè khắp bốn phương, về những kỷ niệm thời thơ ấu, về hình ảnh người mẹ với bao gạo và buồng dừa lưu lại ký ức đậm sâu cho tác giả. Đó là tất cả là những dấu ấn sâu sắc nhất đọng lại không những trong ký ức mà còn trong trái tim chị, để mỗi lần nhớ về quá khứ là mỗi lần thấu hiểu thêm cuộc đời.
Hai mươi chương sách Tôi đi tìm tôi tượng trưng cho hai mươi ga tàu ngược thời gian quay về quá khứ: những sân ga hoành tráng, đìu hiu, những câu chuyện về thành công, thất bại, chuyện con người và những ngã rẽ đổi đời, phản tư, dằn vặt; những nụ cười có, những giọt nước mắt của niềm hân hoan cũng có. Từng trang sách là loạt cảm xúc tuần hoàn của nỗi buồn, niềm vui mà chính tác giả đã từng trải qua.
Tác giả: Trần Huiền Ân
Tên thật Trần Sĩ Tuệ
Sinh năm 1937 – Đinh Sửu
Quê ở làng Vân Hòa, tổng Sơn Xuân, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên
Phú Yên đất và người
Viết về một địa phương, kẻ đi sau có cái lợi là được người đi trước tạo cho ít nhất cũng một đường mòn hay một lối bẻ lau vạch cỏ. Đồng thời có cái thiệt thòi của kẻ đi sau. Không ít sự kiện khi xem đến bạn đọc có thể có cảm tưởng đã biết sơ qua một cách đơn giản trên một trang sách, một bài báo nào đó, hay mang máng nhớ rằng…
PHÚ YÊN - ĐẤT VÀ NGƯỜI là tập sách viết về đất nước - quê hương, nhưng không phải là địa chí Phú Yên, nên không theo trình tự một quyển địa chí, chúng tôi cũng không có tham vọng miêu tả, tường thuật đầy đủ mọi cảnh trí, sinh hoạt của Phú Yên kể từ thuở những lưu dân người Việt theo bước chân Lương Văn Chánh đến đây lập nghiệp.
Chúng tôi chỉ ghi lại những gì mình tìm hiểu được, biết được. Một phần, có thể cung cấp tư liệu chính thức cho những người muốn sưu tầm nghiên cứu về Phú Yên. Phần khác, là những chuyện trên trời dưới đất để kể cho nhau nghe lúc trà dư tửu hậu. Do đó, chấp nhận vượt qua sự chặt chẽ trong bố cục, hàm súc trong diễn tả, mà chuyện gì biết nhiều thì nói nhiều, biết ít thì nói ít, không chú tâm cắt xén cho cân xứng.
Việc sắp xếp các phần, chương, mục chỉ là tương đối.
Muốn thuận tiện cho bạn đọc, tránh sự lặp lại, cái tương đối ấy nhiều khi càng tương đối hơn. Bởi có thể coi một phần trong tác phẩm là chuyện dân gian, dân ca… cà kê dê ngỗng với nhau, tạo thêm phần hứng thú cho những người yêu mến hoặc muốn tìm hiểu về Phú Yên..
Tập sách có 5 phần chính:
1. Lược sử một vùng đất
2. Thiên nhiên
3. Đời sống kinh tế - xã hội
4. Đời sống tinh thần
5. Di tích - Nhân vật
Thời điểm chúng tôi bắt đầu tập hợp dữ liệu sơ thảo từ năm 1996, đến nay (2019) qua nhiều lần chỉnh lý, bổ sung để được cập nhật.
Mong muốn của chúng tôi là giữ được sự trung thực, khách quan, mức độ cao chừng nào hay chừng ấy. Và, những quan điểm trình bày ở đây là quan điểm của cá nhân tác giả.
Thật là điều vô cùng quý hóa đối với chúng tôi nếu được quý bậc thức giả, quý thân hữu, quý bạn đọc... chỉ bảo cho những điều còn thiếu sót, để chân dung quê hương Phú Yên không phải ký họa mà là một bức tranh toàn cảnh, đầy đủ, trọn vẹn, chân xác hơn.
Trần Huiền Ân
Trích “Dân số”:
- Giữa thế kỷ thứ XVII triều đại nhà Minh ở Trung Hoa suy yếu, bị người Mãn Thanh đánh đổ. Một số quan quân trung thành với triều đại cũ không chịu sống dưới chế độ cai trị của người Mãn, đã bỏ nước kéo nhau di cư sang miền đất mới của nước Việt, được thu dụng cho định cư từ Hội An đến Hà Tiên, trong đó có Phú Yên mà Vũng Lấm là người Minh Hương, cho đến năm 1945 còn gọi như vậy.
Năm 1865 - Ất Sửu, Ngự sử Nguyễn Văn Phương tâu vua Tự Đức:
“Ba tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận đất rộng người ít, mở mang được hết. Xin xuống sắc cho tỉnh Quảng Nam và các hạt lân cận như Quảng Ngãi khai rõ những người ngoại tịch và dân không có căn cước dẫn giao cho các tỉnh (Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận) chọn đất chia cho ở, cấp trâu cho cày, đồ làm ruộng để khai khẩn cày cấy những ruộng bỏ hoang, dựng ra thôn xã, ghi vào sổ ngạch…”.
Vua Tự Đức cử Nguyễn Văn Phương làm Khâm phái doanh điền, đặt nha Doanh điền để lo liệu công việc, đến hội với các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, đưa dân vào trong 3 tỉnh phía trong (có Phú Yên) định cư. -
- Xin hãy hình dung và nhẩm tính… Ngày ấy, một ngày cách đây trên 400 năm, Lương Văn Chánh nhận sắc chỉ đưa dân vào cõi Trấn Biên, nơi này có được bao nhiêu người? Kể cả những người dắt trâu bò, mang nông cụ theo sau vó ngựa Phù Già. Kể cả những người lâu năm định trú trong vùng châu thổ từ vịnh Bà Đài phía bắc đến cửa Đà Diễn phía nam, lên phía tây thượng nguồn sông Ba, sông Cái.Thật là khó. Âu cũng đành chào thua khuyết sử!-
Kinh Pháp Hoa là một kinh rất nổi tiếng, có thể nói là một kênh nổi tiếng nhất của đạo Bụt Đại Thừa. Tư tưởng tôn xưng kinh Pháp Hoa là vua của tất cả các kinh đã có từ lâu. Chính nhờ kinh Pháp Hoa mà đạo Bụt Đại Thừa trở thành một cơ sở có căn bản, có truyền thống và biến thành một Giáo hội thực sự với việc tuyên thuyết hai thông điệp chính:
(1) Tất cả chúng sinh đều có thể thành Bụt,
(2) Chỉ có một con đường tu học duy nhất là Phật thừa.
Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sinh buổi ban đầu. Chủ đích quan trọng nhất của chư Bụt là hướng dẫn chúng sinh đi vào con đường Phật thừa, tức là con đường Khai, Thị, Ngộ, Nhập tri kiến của Bụt. Vì vậy mà triết lý này được gọi là Khai tam hiển nhất, hay là Hội tam quy nhất, nghĩa là gom cả ba cái lại để đưa về một cái. Ðiều đó làm cho kinh Pháp Hoa trở thành Diệu Pháp.
Với Sen nở trời phương ngoại, Thiền sư Thích Nhất Hạnh sẽ không giảng từng đoạn kinh Pháp Hoa như nhiều người khác đã làm, mà chỉ đi vào từng Phẩm, tóm lược nghĩa chính của từng Phẩm, khai triển, và diễn dịch những điều căn bản trong từng Phẩm, để quý vị độc giả có được một cái thấy tuy khái quát nhưng rõ ràng về ý kinh. Riêng Phẩm Quán Thế Âm Bồ tát tức là Phẩm Phổ Môn, Phẩm thứ 25, vì là Phẩm được nhiều người tụng đọc nhất trong toàn bộ kinh Pháp Hoa, nên Thiền sư sẽ giảng với nhiều chi tiết hơn. Thêm vào đó, Người cũng sẽ đưa ra một số đề nghị để đóng góp cho sự hoàn bích của đóa hoa đẹp nhất trong Vườn kinh điển Đại Thừa này.
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến
Tác phẩm này không phải là một văn học sử, cũng không phải một công trình khảo luận.
Đây là chứng dẫn một thời đại, của một người đã bước trong lịch trình hăng say của Thế hệ văn học cận kim, đã lăn lóc hàng ngày với các bạn đồng hành. Nó đã sống, đã thấy, đã cảm xúc giữa một thế giới mới đột nhiên xuất hiện từ một thế giới cũ. Nó đã chia sẻ những vinh nhục của số kiếp con nhà văn.
Tiếng súng đại bác lần đầu tiên nổ dưới vòm trời Âu làm rung chuyển địa cầu, hai mươi mốt năm sau Đệ nhất Thế chiến, đã làm sụp đổ tất cả kiến trúc đồ sộ nhưng mong manh của Độ hộ Pháp trên Đất nước thiêng liêng của Tổ quốc, chỉ độc nhất còn lại văn hóa.
Kỉ nguyên mới đang quằn quại trong khói lửa. Cái gì còn lại vẫn nguyên vẹn, đã trở thành một kí ức vàng son.
Nó chói lọi trong quạnh quẽ huyền mơ của một dĩ vãng luôn luôn còn hiện tại. Không có người chết. Chỉ có người vắng mặt.
Nhân chứng, vai còn nặng hành trang của cuộc phiêu lưu kì thú ấy, không có một kiêu hãnh nào cả. Không vì khiêm tốn giả dối. Chỉ vì trung thực truyền thống của Văn nghệ đối với người đương thời với nó trong thế hệ qua, đối với chính lương tâm của nó trong thế hệ này.
Trong lịch sử, văn hóa Trung Hoa ảnh hưởng lên nước ta là điều không ai có thể phủ nhận. Có thể nói, các mô hình xã hội, chính trị, văn hóa, thi cử, quan trường… kể cả văn tự trong mấy ngàn năm ông cha ta đều ít nhiều vay mượn của họ. Thế nhưng, trong những khu vực mà chúng ta tiếp cận lại có một bộ môn hầu như khá mơ hồ, sự hiểu biết có giới hạn. Đó là phát triển quân sự - đặc biệt là những suy nghĩ triết học của người Trung Hoa về chiến tranh như thế nào? Chúng ta có thể tìm hiểu cách tổ chức quân đội hay bố phòng nhưng rất khó nắm bắt được những động lực vận hành bộ máy ở đằng sau.
Một sự thực khá hiển nhiên, Trung Hoa là quốc gia gây hấn với lân bang nhiều nhất nhưng luôn luôn tìm cách giải thích cho những lần động binh, coi như việc chẳng đặng đừng chỉ cốt để vươn dài chính nghĩa chứ không phải vì lợi lộc. Cho nên, học thuật quân sự của họ cũng có hai phần, một phần hình nhi thượng có tính triết học biện minh cho chiến tranh, một phần hình nhi hạ bao gồm những công tác để hiện thực hóa chiến tranh đó. Chúng ta ít nhiều biết mưu lược, thủ đoạn của họ qua Tam Quốc chí, Thủy hử, Đông Chu liệt quốc..., nhưng không biết đến một cách lớp lang, chưa kể nhiều khi có những ấn tượng rất sai lạc trên thực tế.
Không hiếm người cho rằng ra trận chỉ cần một viên tướng khỏe, giỏi võ nghệ phi ngựa ra thách đấu, thắng bại tùy thuộc vào cá nhân chứ không vào tập thể. Cũng có người lại quan tâm đến trận đồ, phù phép và hành quân không khác gì một bàn cờ mà hai bên phải tôn trọng những quy luật đã được định sẵn. Những giới hạn đó không phải không có nguyên nhân. Trước hết nước ta cũng như Trung Hoa có tinh thần trọng văn, khinh võ. Trong xã hội, quan võ luôn luôn bị coi thấp hơn quan văn và nỗi rẻ rúng đó bắt nguồn từ việc võ quan bị đồng hóa với người ít học, vai u thịt bắp.
Những võ quan cũng chỉ được tuyển mộ qua cưỡi ngựa bắn cung, xách tạ, lăn khiên… mà không được học tập một cách bài bản các kỹ thuật và kiến thức bài binh bố trận.
Thứ hai, binh thư vốn là sách cấm, những ai tàng trữ trong nhà hay lén đọc nếu phát giác có thể bị khép vào tội âm mưu phản loạn. Kiến thức quân sự vì thế hầu như chỉ thu lượm qua những bộ tiểu thuyết chương hồi không cung cấp cho con người một sở học đúng đắn. Đến khi hữu sự, việc chỉ huy lại giao cho một nguyên soái gốc là quan văn, quen với thơ phú hơn binh bị.
Trong tài liệu nước ta, sách vở do người mình trước tác về quân sự hầu như rất ít. Chỉ đến gần đây, chúng ta mới biết đến Binh thư yếu lược của Trần Quốc Tuấn và Hổ trướng khu cơ của Đào Duy Từ mà thực chất cũng chỉ là những loại sổ tay (manual) bao gồm một số kiến thức cơ bản dành cho võ quan, dạy cách thức hành quân cấp nhỏ chứ không phải bàn về chiến lược quốc gia.
Ngược lại, Trung Hoa đã hình thành những tác phẩm quân sự từ lâu, nhiều công trình nghiên cứu quy mô đã xuất hiện từ cổ đại nhưng đến nay vẫn còn giá trị. Những tác phẩm đó không những bàn về chiến thuật, chiến lược mà còn hình thành một triết học quân sự gắn liền với văn hóa Trung Hoa, là những đóng góp đáng kể cho văn minh nhân loại.
Để tìm hiểu cũng như đánh giá động thái của một quốc gia to lớn ngay sát bên cạnh chúng ta, chúng tôi xin giới thiệu công trình của một học giả Đài Loan, hiện đang sống ở Canada. Đó là bản dịch cuốn Chinese
Military Theory: Ancient and Modern (Lý thuyết quân sự Trung Hoa xưa và nay) của TS. Chen-Ya Tien (田震亞: Điền Chấn Á) do Nhà xuất bản Mosaic Press, chi nhánh ở Oakville, Ontario, Canada ấn hành năm 1992.
Bản dịch này trước đây đã được Nhà xuất bản Công an nhân dân ấn hành năm 2004. Trong kỳ tái bản này, chúng tôi có bổ túc thêm nhiều chi tiết chưa đầy đủ như Sách dẫn (Index), Từ khố (Glossary) và Thư mục tham khảo của chính tác giả. Một số chữ dùng cũng được chỉnh lại theo lối gọi chính thức hiện nay. Quốc hiệu của Trung Hoa thay đổi theo từng thời kỳ nhưng để cho giản tiện, thời kỳ trước năm 1949 chúng tôi dịch là Trung Hoa, sau năm 1949, khi Mao Trạch Đông làm chủ Hoa lục, tên chính thức của họ là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, chúng tôi dịch gọn lại là Trung Quốc.
Lần tái bản này sẽ không thực hiện được nếu không có sự nỗ lực của TS. Trần Đức Anh Sơn và Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.
Người dịch chân thành cám ơn những người bạn đã dành công sức để một lần nữa giới thiệu với độc giả tác phẩm này.
Tháng 9.2017
Dẫn nhập
Kể từ giữa thập niên 1970, xu hướng chính trị thế giới đã dần dần tách ra khỏi đạo lộ đối cực để đi vào một hệ thống đa phương. Theo nhiều tài liệu khác nhau, những trung tâm quyền lực chính trị mới của thế giới có thể gồm cả Cộng đồng châu Âu, Liên Xô, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Trung Quốc. Trên định nghĩa kinh tế và quân sự, Trung Quốc có lẽ kém xa hai siêu cường kia và cũng chưa mạnh như hai cường lực còn lại trong một tương lai gần. Tuy nhiên, nếu nhìn vào dân số to lớn, tài nguyên dồi dào và một diện tích địa lý vĩ đại thì không ai dám phủ nhận là nếu không có những khủng hoảng xã hội - chính trị nội tại nghiêm trọng, Trung Hoa sẽ tiến lên trở thành siêu cường thứ ba và có một ảnh hưởng mạnh mẽ trên chính trị toàn cầu và an ninh thế giới.
Kể từ thập niên 1950, các học giả phương Tây khi nghiên cứu về quân sự Trung Quốc đã chú trọng đặc biệt tới Quân Giải phóng Nhân dân (People’s Liberation Army - PLA), lý thuyết về chiến tranh nhân dân hay những nguyên tắc quân sự, chủ thuyết và chính sách quốc phòng của Trung Quốc đại lục. Rất ít người nghiên cứu sâu hơn về các hệ thống quân sự cận đại hay lịch sử phát triển các tư tưởng quân sự.
Nghiên cứu lịch sử phát triển của các tư tưởng quân sự Trung Hoa không chỉ liên quan đến việc hoạch định chính sách mà còn quan trọng trong việc hiểu biết Trung Hoa cận đại và các hệ thống quân sự của họ vì hệ thống hiện đại nào cũng bắt nguồn từ lịch sử. Ðó là lý do tại sao nghiên cứu này bàn cả tới một phần triết học quân sự Trung Hoa thời cổ để tìm hiểu sự liên tục và ảnh hưởng tới việc phát triển tư tưởng quân sự Trung Quốc ngày nay.
Trong suốt chiều dài lịch sử, Việt Nam luôn xem trọng việc phát triển quan hệ với các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước trong khu vực châu Á. Trong đó, Ấn Độ là quốc gia có quá trình tiếp xúc và phát triển quan hệ sớm với Việt Nam, được đánh giá là một trong những mối quan hệ “trong sáng như bầu trời không một gợn mây” (cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng) trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Thực tế cho thấy, quan hệ Việt Nam - Ấn Độ được tạo dựng và phát triển trên nền tảng vững chắc bởi sự gắn bó, tương đồng về địa lý, văn hóa, lịch sử... Trong thời kỳ đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập, mặc dù đang gặp nhiều khó khăn nhưng hai nước vẫn giúp đỡ và ủng hộ lẫn nhau. Sau khi giành được độc lập, Ấn Độ vẫn tiếp tục ủng hộ Việt Nam cả về mặt tinh thần và vật chất trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Hoa Kỳ, cũng như giúp đỡ Việt Nam khắc phục những hậu quả sau chiến tranh. Có thể thấy rằng, việc nghiên cứu mối quan hệ Việt Nam - Ấn Độ ở một giai đoạn lịch sử nhất định, đặc biệt là trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI với những biến đổi to lớn của tình hình thế giới và khu vực, không chỉ cho chúng ta thấy được những thành tựu mà hai nước đã đạt được để tiếp tục phát huy, mà còn giúp chúng ta rút ra bài học kinh nghiệm từ những hạn chế còn tồn tại trong mối quan hệ song phương, để từ đó có những đề xuất nhằm đưa mối quan hệ ngày càng phát triển và đi vào chiều sâu hơn.
Trên cơ sở đó, cuốn sách Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ đầu thế kỷ XXI đến nay của TS. Đỗ Thanh Hà sẽ góp phần phục dựng có hệ thống và toàn diện mối quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI. Với nguồn tư liệu xác thực, đáng tin cậy, tác giả đã cung cấp một cái nhìn bao quát với những đánh giá khách quan về quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trong những giai đoạn lịch sử cụ thể. Trong đó, tập sách tập trung phục dựng lại một cách đầy đủ và hệ thống quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trong gần hai thập niên đầu thế kỷ XXI trên cơ sở trình bày những nhân tố tác động đến sự phát triển của mối quan hệ Việt Nam - Ấn Độ, từ sự tương đồng về văn hóa, lịch sử, những tiền đề lịch sử, sự biến chuyển của bối cảnh quốc tế và khu vực cho đến quá trình chuyển biến tư duy đối ngoại của hai nước. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, tác giả cũng trình bày những hạn chế còn tồn tại, từ đó đưa ra những đề xuất kiến nghị, góp phần định hướng cho công tác đối ngoại của Việt Nam nói chung và đối với Ấn Độ nói riêng, nhằm tăng cường hơn nữa và đưa mối quan hệ hai nước ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu. Những thông tin hữu ích từ cuốn sách được xem là nguồn tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, giảng viên, sinh viên và những người quan tâm đến việc tìm hiểu và nghiên cứu về quan hệ Việt Nam - Ấn Độ.
PGS. TS. Trần Nam Tiến
Lời nói đầu
Mối quan hệ truyền thống Việt Nam - Ấn Độ đã có từ hàng ngàn năm qua, khởi nguồn từ sự giao lưu tiếp xúc văn hóa và tôn giáo. Mối quan hệ gắn bó giữa hai dân tộc được hai vị lãnh đạo kiệt xuất của hai nước là Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Jawaharlal Nehru tạo dựng nền móng, các thế hệ lãnh đạo kế tiếp và nhân dân hai nước dày công vun đắp. Thủ tướng Nehru là một trong những vị khách nước ngoài đầu tiên thăm Việt Nam sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, sau đó Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã sang thăm Ấn Độ vào tháng 2-1958. Bước vào thời kỳ độc lập, xây dựng đất nước, giữa hai nước đều có những lợi ích tương đồng, không gặp những trở ngại so với nhiều quốc gia khác, qua đó tạo cơ sở cho hai nước duy trì và phát triển quan hệ hợp tác tốt đẹp trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, khoa học công nghệ...
Chiến tranh lạnh kết thúc (1991) đã mở ra thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế phát triển mạnh mẽ, trong đó các quốc gia chú trọng đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ đối ngoại để tạo tiền đề thúc đẩy sự phát triển của quốc gia. Trong tổng thể tiến trình hội nhập quốc tế, các quan hệ song phương giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong ưu tiên đối ngoại của các nước trên thế giới. Trong bối cảnh quốc tế mới, Ấn Độ tuyên bố thực hiện Chính sách Hướng Đông đồng thời với công cuộc cải cách kinh tế để đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng. Thủ tướng Ấn Độ Atal Bihari Vajpayee đã tuyên bố vào ngày 19-9-2000: “Có sự thừa nhận vai trò của Ấn Độ như một nhân tố ổn định ở châu Á. Chúng ta đã có kế hoạch sẵn sàng gánh vác trách nhiệm của chúng ta như một đối tác toàn cầu (Global player)”(1). Trong giai đoạn một của chính sách này, Ấn Độ bắt đầu chú ý tới các nước châu Á, đặc biệt là Đông Nam Á, một khu vực giàu tiềm năng về nguyên liệu và năng lượng. Trong đó, Việt Nam, vốn có sự ổn định cao về chính trị, tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng tăng, và có vị trí địa chính trị quan trọng, đóng vai trò là một mắt xích chiến lược trong Chính sách Hướng Đông của Ấn Độ ở Đông Nam Á nhằm mục đích tăng cường quan hệ chính trị, kinh tế và lợi ích an ninh của Ấn Độ tại khu vực này. Bên cạnh đó, với quá trình thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam cũng đã hòa cùng xu thế tiến bộ của thời đại bằng cách tiến hành hội nhập quốc tế và mở rộng hợp tác với các khu vực bên ngoài. Việc chủ động mở rộng các quan hệ đối ngoại để tranh thủ kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại phục vụ cho các mục tiêu phát triển quốc gia đã thể hiện rõ một trong những nội dung quan trọng của hội nhập quốc tế là “thúc đẩy quan hệ song phương dựa trên các chuẩn mực quốc tế chung”(1).
Bản thân hai nước có nhiều tiềm năng để phát triển quan hệ, cụ thể hai nước đều là thị trường lớn về thương mại và đầu tư; có nguồn nhân lực dồi dào và nguồn tài nguyên phong phú; Việt Nam được Ấn Độ xác định là “cửa ngõ” để Ấn Độ vươn ra mở rộng quan hệ với các nước trong khu vực; Việt Nam có hợp tác, chuyển giao những công nghệ hiện đại của Ấn Độ, như lĩnh vực nguyên tử, công nghệ thông tin, nông nghiệp... Ngược lại, Việt Nam cũng sẵn sàng làm cầu nối cho Ấn Độ tăng cường hợp tác với các nước ASEAN và các diễn đàn hợp tác khác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Ngoài ra, Ấn Độ và Việt Nam cùng chia sẻ mối quan hệ lịch sử căng thẳng và tranh chấp biên giới với Trung Quốc. Điều đó cũng đã tạo ra những lợi ích chung trong chính sách đối ngoại của cả hai quốc gia đối với Trung Quốc, khi mà Trung Quốc, với sự trỗi dậy mạnh mẽ đem lại nhiều thành công, đang muốn mở rộng ảnh hưởng của mình ra khỏi khu vực với tham vọng bành trướng ảnh hưởng của mình đến khu vực Nam Á và cả Ấn Độ Dương.
Bước vào thế kỷ XXI, quan hệ Việt Nam - Ấn Độ tiếp tục được phát triển tốt đẹp trên cơ sở nhận thức và đánh giá đúng đắn về chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia gắn với tình hình khu vực và quốc tế. Hai bên đã thường xuyên có những chuyến thăm cấp cao lẫn nhau nhằm không ngừng củng cố và phát triển mối quan hệ gắn bó và bền chặt. Đặc biệt, trong chuyến thăm Ấn Độ của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh vào tháng 5-2003, mối quan hệ song phương bước sang một trang mới. Trong chuyến thăm này, hai bên đã ký kết Tuyên bố chung về khuôn khổ hợp tác toàn diện giữa hai nước bước vào thế kỷ XXI, theo đó: “Bước vào thế kỷ XXI, hai bên quyết tâm phát huy mối quan hệ hữu nghị truyền thống và nâng quan hệ hợp tác giữa hai nước lên tầm cao mới nhằm ứng phó với các thách thức mới của toàn cầu hóa, mối đe dọa của khủng bố quốc tế và những thách thức to lớn đối với hệ thống quan hệ quốc tế”. Đây là tuyên bố chung về hợp tác toàn diện đầu tiên của Việt Nam ký với một nước khác trong thế kỷ XXI. Tuyên bố này có ý nghĩa hết sức quan trọng, đề ra những định hướng lớn cho sự phát triển sâu rộng của quan hệ hai nước trong thế kỷ XXI.
Nhìn chung, quan hệ hữu nghị hợp tác giữa Ấn Độ và Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể và đang có những bước phát triển tích cực trên cơ sở quan hệ “đối tác chiến lược” dựa trên sự nhận thức và đánh giá đúng đắn về chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia gắn với tình hình khu vực và quốc tế. Trải qua nhiều thập kỷ, mối quan hệ này pháttriển mạnh mẽ, toàn diện, được mở rộng ra trên tất cả các lĩnh vực của hai nước.
Trong thời gian tới, trên cơ sở nền tảng lâu đời của mối quan hệ truyền thống Việt Nam - Ấn Độ, với Chính sách Hành động Hướng Đông (Act East Policy) trên cơ sở nâng cấp từ Chính sách Hướng Đông (Look East Policy) của Ấn Độ, tiềm năng về khoa học công nghệ của Ấn Độ và công cuộc Đổi mới của Việt Nam là những yếu tố thuận lợi giúp mang lại nhiều cơ hội thúc đẩy mối quan hệ giữa hai nước. Bên cạnh đó, sự phát triển của mối liên kết Đông Á và vấn đề Biển Đông cũng được Ấn Độ coi là cơ hội tốt để phát triển quan hệ với Việt Nam và giúp Ấn Độ đạt được những mục tiêu chiến lược của mình. Và ngược lại, tăng cường thúc đẩy quan hệ với Ấn Độ cũng sẽ giúp Việt Nam nâng cao vị thế trong quan hệ khu vực và quốc tế, đồng thời phục vụ tích cực cho sự phát triển hiện nay của Việt Nam.
Cuốn sách Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ đầu thế kỷ XXI đến nay không chỉ phục dựng lại một giai đoạn lịch sử quan trọng trong quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trên mọi lĩnh vực, cung cấp một cái nhìn bao quát với những đánh giá khách quan về quan hệ Việt Nam - Ấn Độ tại những giai đoạn lịch sử cụ thể dựa trên những nguồn tài liệu, thông tin chọn lọc, tin cậy, mà còn có thể sử dụng để làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, cán bộ, giảng viên, người học các ngành Lịch sử, Đông phương học, Quan hệ quốc tế và trực tiếp là cho những ai quan tâm, tìm hiểu về mối quan hệ giữa Việt Nam và Ấn Độ.
Nội dung cuốn sách gồm 3 chương:
Chương 1. Các nhân tố tác động đến quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ đầu thế kỷ XXI đến nay
Nội dung chương này nhằm trình bày các nhân tố (bên trong và bên ngoài) góp phần thúc đẩy và phát triển mối quan hệ song phương, trong đó bao gồm những tương đồng về địa lý, văn hóa, đặc biệt là sự tương đồng về lịch sử khi hai nước luôn ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Việc khái quát quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ trong lịch sử được xem là nền tảng quan trọng để tiếp cận đề tài, hình thành những hệ thống kiến thức về vấn đề nghiên cứu cũng như có những đánh giá bước đầu về hướng nghiên cứu và làm cơ sở lý luận thực tiễn cho nội dung chính của đề tài trong các chương tiếp theo. Bên cạnh đó, những biến đổi to lớn của tình hình thế giới bước sang thế kỷ XXI cùng với những điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của hai nước cũng có tác động không nhỏ đến mối quan hệ này. Ngoài ra, chúng tôi còn đề cập đến vai trò và vị thế của mỗi nước trong chính sách đối ngoại của nhau để làm rõ quá trình triển khai các chính sách cụ thể và nỗ lực của hai nước nhằm duy trì và thúc đẩy mối quan hệ lên tầm cao mới.
Chương 2. Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ “hợp tác toàn diện” đến “đối tác chiến lược” và “đối tác chiến lược toàn diện”
Trong chương này, chúng tôi tập trung đi sâu vào nghiên cứu mối quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trên tất cả các lĩnh vực (chính trị - ngoại giao, kinh tế, quốc phòng, văn hóa, giáo dục và khoa học công nghệ) từ đầu thế kỷ XXI đến nay. Qua đó có thểthấy rằng quan hệ Việt Nam - Ấn Độ là hết sức tốt đẹp. Ấn Độ vẫn tiếp tục khẳng định Việt Nam là trụ cột trong Chính sách Hướng Đông (Look East Policy) (và nay là Chính sách Hành động phía Đông - Act East Policy) của mình và ngược lại, Việt Nam cũng xem tăng cường quan hệ với Ấn Độ là hết sức cần thiết và là bước đi an toàn cho Việt Nam trong bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp như hiện nay.
Chương 3. Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ đầu thế kỷ XXI đến nay: kết quả, đặc điểm và kiến nghị
Trên cơ sở nội dung của những chương trước, chúng tôi khái quát lại những thành tựu cũng như phân tích những hạn chế trong mối quan hệ Việt Nam - Ấn Độ. Việc nhìn nhận đầy đủ các vấn đề trên giúp chúng tôi phân tích được những đặc điểm của mối quan hệ hai nước. Trên cơ sở đó, chúng tôi cũng cân nhắc đưa ra những đề xuất kiến nghị, góp phần cho công tác đối ngoại của Việt Nam đối với Ấn Độ được tăng cường hơn nữa và đưa mối quan hệ hai nước ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu.
Modern Vietnamese - Tiếng Việt Hiện Đại - Tập 4 (Kèm CD)
Từ giữa thế kỉ 19, tiếng Việt đã phát triển sang giai đoạn tiếng Việt hiện đại và có thể nói, trong thời gian gần 2 thế kỉ, tiếng Việt hiện đại đã hoàn thiện cấu trúc của mình theo những khía cạnh khác nhau để thoả mãn cho cộng đồng người Việt trong việc sử dụng làm công cụ giao tiếp, tư duy.
Đặc biệt, vào thời điểm hiện nay, tiếng Việt đã thoả mãn sự phát triển của xã hội bằng việc cung cấp một cách đầy đủ các hệ thống thuật ngữ khoa học. Và, với dấu hiệu này, chúng ta có quyền nói rằng vào giai đoạn phát triển hiện đại, tiếng Việt đã hoàn thiện sự phát triển của mình.
“Một số người mơ ước thành công, trong khi những người khác thức dậy mỗi sáng và làm cho nó xảy ra”
Ai trong chúng ta cũng đều mong muốn tạo dựng những thói quen tốt nhằm giúp bản thân tiến bộ và phát triển mỗi ngày; đơn cử như câu chuyện lập kế hoạch, nghị quyết đầu năm. Khi bắt đầu, ai ai cũng dâng tràn ý chí, quyết tâm để thay đổi bản thân. Nhưng có một sự thật là 92% người lập nghị quyết đầu năm với rất nhiều dự định liên quan tới: sức khoẻ, tài chính, sự nghiệp, quan hệ, tình yêu,… đã THẤT BẠI và BỎ CUỘC chỉ sau 2-3 TUẦN! Và chỉ 8% trong số đó thực hiện được những cam kết thành công! (Theo nghiên cứu của Opinion Research Cooperation dựa trên 1012 người Mỹ).
Sự khắc nghiệt của việc thiết lập và thực hiện các mục tiêu còn hơn cả quy luật 80/20 – đó là lý do chúng tôi thực hiện ấn bản sổ tay đặc biệt 6×66 ngày thử thách – như một công cụ hỗ trợ và truyền cảm hứng giúp bạn có một năm thành công hơn.
SỔ TAY 6X66 NGÀY THỬ THÁCH LÀ GÌ?
Là ấn bản đặc biệt (giới hạn) được phát triển dựa trên phiên bản sổ tay “66 ngày thử thách” giúp bạn tạo dựng những thói quen tốt qua 6 chặng thử thách liên tục, tương đương với 396 ngày – hơn một năm.
6×66 ngày thử thách gợi ý cho bạn một kế hoạch thử thách chính mình ở 6 lĩnh vực chính cần quan tâm trong cuộc sống như: Thể chất, cuộc sống cá nhân, mối quan hệ, tài chính cá nhân, công việc, kinh doanh và tâm linh. Bạn có thể khoanh vùng thói quen mình đang ấp ủ và lên kế hoạch thực hiện nó và theo dõi việc thực hành mỗi ngày bằng cách ghi chép vào sổ. Và theo dõi sự tiến bộ của mình sau 1 năm.
LỢI ÍCH CỦA SỔ TAY 6X66 NGÀY THỬ THÁCH?
Sổ tay sáu trong một – công cụ để bạn:
– Lập kế hoạch và tạo dựng những thói quen xuất chúng
– Viết thư gửi chính mình ở tương lai
– Thực hiện 6 chặng liên tục trong hành trình 66 ngày thử thách (tương đương 396 ngày)
– Đặt mục tiêu và đo lường hiệu quả thực hiện của mình một cách thông minh với bảng hành trình
– Viết nhật ký phát triển bản thân
PHIÊN BẢN NÀY CÓ GÌ ĐẶC BIỆT?
– 6×66 Ngày Thử Thách là phiên bản sổ tay đặc biệt bìa cứng, in màu trên chất liệu giấy cao cấp với số lượng có hạn.
AI LÀ NGƯỜI PHÙ HỢP VỚI SỔ TAY 6X66 NGÀY THỬ THÁCH?
– Những người đang cần xây dựng những thói quen tốt nhưng chưa có giải pháp và động lực để thực hiện.
– Những người muốn chiến thắng sự lười biếng và trở thành phiên bản tốt hơn của chính mình
LÀM THẾ NÀO ĐỂ CÓ THÊM ĐỘNG LỰC THỰC HIỆN 6X66 NGÀY THỬ THÁCH?
1. Chia sẻ 66 ngày của bạn tại Group Cộng đồng các chiến binh 66ngaythuthach 66dayschallenge
2. Truyền cảm hứng cho những người xung quanh, để họ thấy rằng, bạn làm được thì họ cũng sẽ làm được.
3. Tiếp tục theo đuổi các thói quen mới và duy trì thói quen cũ.
“Nước chảy thì đá sẽ mòn; bằng sự quyết tâm, một chú chuột có thể cắn đứt đôi một cọng cáp và nhiều cú chặt nhỏ có thể làm đổ một cây sồi vĩ đại.” – Benjamin Franklin –
Mọi người, đặc biệt là phụ nữ, từ khi vừa sinh ra đã bị nhét vào đầu cái gọi là “quy định làm phụ nữ”, và bị nhồi như một con thú nhồi bông vậy. Phải biết hy sinh, phải mang lại hạnh phúc cho người xung quanh, phải âm thầm chịu đựng, phải canh theo cái kẻ choáng hết trang bìa của tờ tạp chí kia mà sống. Ủa, sao không ai bắt phải chết một cách đầy hối tiếc, hay phải bốc hơi khỏi cõi đời này mà vẫn không hiểu tại sao mình lại bắt đầu?
Đồng cảm với tác giả cuốn “Này cô gái, thức tỉnh đi!”, tôi đi qua bao gãy đổ, giông tố trong đời chỉ để hiểu ra rằng, chỉ có bản thân ta chịu trách nhiệm về mình, về thành công – thất bại, về sự thăng bằng của chính mình, về định nghĩa như thế nào là hạnh phúc.
One size does not fit all – Không có một khuôn mẫu cho tất cả mọi người. Mỗi chúng ta là một bản thể rất độc đáo của tạo hóa. Vì vậy, mỗi chúng ta có một hành trình rất riêng, rất khác, chỉ có thể vừa vặn với thiết kế cá nhân mà ta tự mình vẽ ra cho bản thân mình. Không ai khác. Hãy lắng nghe lời thì thầm trong trẻo, rất dịu dàng nhưng mạnh mẽ đến vỡ òa của chính trái tim ta.
Tôi biết, và tin rằng, quyển sách “Này cô gái, thức tỉnh đi!” sẽ thay đổi cuộc đời của nhiều phụ nữ, và tiếp thêm cho các bạn sức mạnh để tìm thấy hạnh phúc rất riêng tư cho bản thân mình. Happiness is the end game – Cuối cùng, ta sinh ra là để tìm thấy hạnh phúc, không phải để làm nô lệ cho những kẻ hạnh phúc. Chúc các bạn vững tin bước những bước đầu tiên, và hẹn các bạn ở một miền hạnh phúc chỉ cách chúng ta vài trang sách.
– Nguyễn Phi Vân
“Nếu gặp laị nhau ngày sau, liệu ta sẽ thế nào?”
Tác giả: Bỉnh Khôi
Sinh năm 1992
Quê quán: Cần Thơ
“Những chuyến tàu mùa hè mang đến một giọng văn rất đặc biệt và nhiều cảm xúc” – TS. Bùi Trần Quỳnh Ngọc, Trưởng phòng Sau Đại học trường Đại Học Sư phạm TP.HCM
“Những chuyến tàu mùa hè gợi cho tôi nhiều cảm xúc về những năm tháng tuổi trẻ. Về những người trẻ ngây thơ, mộng mơ, cuồng nhiệt với những giấc mơ đời mình. Và vì thế thanh xuân của chúng ta thật đẹp”. – TS Luật - Luật sư - Họa sĩ Amanda Huỳnh
Lời nói đầu
Vài lời gửi những người thương,
Tôi không nghĩ đây là một quyển sách, hay là một công trình nghệ thuật mà chỉ là một quyển sổ ghi chép về hành trình tìm kiếm hạnh phúc của những người trẻ. Đó là một cậu bé đen nhẻm, hay bị bạn bè ức hiếp ở trường trung học. Một chàng trai đồng tính với xuất thân từ gia đình giàu có nhưng luôn cô quạnh vì những lời miệt thị của cuộc đời. Một cô gái trót lầm lỡ với người yêu nơi phương xa. Một người đàn ông đang đứng trên đỉnh cao của thành công nhưng lại luôn mang trong mình sự ray rứt, đau khổ khi nghĩ về thời gian thanh xuân cơ cực sống cùng bố mẹ. May mắn thay, hình như có một phép màu nào đó mà khi đối diện với những đau khổ trong cuộc đời, tất cả họ đều có thể vượt qua và tiếp tục bước đi trên hành trình tìm kiếm hạnh phúc. Hy vọng rằng những câu chuyện được ghi chép từ quyển sổ này có thể tạo nên sự đồng cảm với những bạn trẻ khác, những bạn trẻ cũng đang bước đi cô đơn và đối mặt với nhiều khó khăn trên đoạn đường mình đã chọn.
Cảm ơn bố mẹ vì đã sinh ra con với một tâm hồn nhiều xúc cảm để con có thể sống một cuộc đời bình thường, viết nên những dòng chia sẻ bình thường và chân tình gửi đến những người con yêu quý.
Bỉnh Khôi (FOX)
Trích đoạn ĐÊM HÔM ẤY BA TÔI CÓ THÈM MỘT TÁCH TRÀ?
Lớn lên, đi học, đi làm xa nhà, mỗi khi buồn bực tôi hay ước mình được trở về với ba mẹ, buổi sáng nằm trong chăn, nghe tiếng hát của Khánh Ly xuyên qua tấm màn the trước cửa. Sau đó là tiếng ấm nước đun sôi, ba mẹ tôi dậy sớm vừa pha trà uống vừa trò chuyện rôm rả.
Ấm trà luôn gợi tôi nhớ về những buổi sáng ba hay khoe với mẹ rằng mới được chồng cọc gỗ tràm hay vụ lúa mùa này trúng lớn. Tôi đập tay lên mặt ông anh trong cơn ngái ngủ: “Vậy là mai ba mua quần áo mới cho đi học. Có gạo đổi bánh ống ăn nữa”. Sáng đó, cả gia đình tôi đã dậy rất sớm. Trên chiếc xuồng ba lá nhỏ, ba mẹ chèo ngược con nước đưa chúng tôi ra phiên chợ quê để sắm sửa vài ba vật dụng trong nhà, nào là muối, là gạo, là buồng cau cho nội, là khúc vải may áo cho mẹ. Niềm vui ngày đó giản đơn nhưng ấm áp. Những năm tháng sau này, khi đã đi làm và kiếm được rất nhiều tiền, đủ để mua cho ba mẹ và bản thân nhiều thứ nhưng chẳng bao giờ tôi có thể tìm lại được cảm giác hân hoan của ngày xưa ấy.
Trích đoạn MÙA HÈ NĂM ĐÓ, GIÓ ĐÃ THỔI TÔI ĐI ĐÂU?
Vết thương đau tê tái nhưng nguyên biết nó không đau bằng lòng mình. Thứ niềm đau âm ỉ, ghê sợ quấn chặt trái tim khi nghĩ về Quân, nghĩ về những chiếc hôn, về hơi thở dồn dập của cậu ấy trên một bầu ngực nào khác – chẳng phải Nguyên.
Hôm cuối cùng gặp nhau, Nguyên ngồi đối diện Quân ở một quán cà phê vắng người giữa lòng Sài Gòn. Nguyên nhớ mình đã ghìm chặt những tổn thương trong lòng để hỏi anh: “Anh biết Lan là bạn thân của em mà? Sao anh lại ngủ với Lan?”. Quân cúi gầm mặt để lảng tránh đôi mắt sắc lạnh của Nguyên, đôi mắt mà anh từng bảo chỉ muốn nhìn mãi không thôi giờ đã sưng húp. Khi sóng mũi bắt đầu cay xè, Nguyên quay đi nơi khác và nghe rõ mồn một từng thanh âm đau đớn phát ra nơi cổ họng: “Anh biết em đã cùng lớn lên với Lan, chúng em đã cùng nhau tốt nghiệp, cùng nhau đi du lịch, cùng hứa là sẽ tổ chức lễ cưới chung với nhau mà? Anh biết mà đúng không Quân?”. Nguyên nấc lên từng hồi trong niềm uất hận và cả sự bất lực. Đổi lại là hai từ “xin lỗi” vô nghĩa từ Quân. Chỉ một tấm kính ngăn cách chỗ họ ngồi với thế giới bên ngoài kia nhưng đó là hai bầu trời khác nhau, Nguyên thấy cuộc đời mình tăm tối và buồn tẻ còn Sài Gòn thì vẫn nhộn nhịp và đông vui. Quân thì vẫn ở đó. Lan cũng vẫn ở đó cách vài ba con phố đợi anh về với chiếc bụng phình to. nỗi buồn cũng vẫn ở đó. Sự phản bội cũng vẫn ở đó. Chỉ có tình yêu của người mà Nguyên đặt cược bằng cả tuổi thanh xuân đã biến mất tự bao giờ.
“Một N.V.L hay vài N.V.L không thể biết hết mọi việc, nói hết mọi việc và làm hết mọi việc. Chỉ có sự nhất trí hành động của toàn Đảng, toàn dân mới có thể tạo nên chuyển biến thật sự cho đất nước”. - Nguyễn Văn Linh
Lời nói đầu
Chuyên mục “Những việc cần làm ngay” gồm 31 bài báo của tác giả N.V.L. đăng tải trên báo Nhân dân từ ngày 25-5-1987 đến 28-9-1990 là một chuyên mục tạo nên dấu ấn đậm nét trong đời sống xã hội và báo chí những năm đổi mới. Với tinh thần đổi mới thật sự và chống tiêu cực mạnh mẽ để góp phần thúc đẩy công cuộc xây dựng đất nước đi dần đến ổn định, các bài báo ký tên N.V.L. của chuyên mục “Những việc cần làm ngay”đã nhận được sự ủng hộ rộng lớn từ khắp nơi và của hầu hết các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Có thể thấy ý nghĩa to lớn của loạt bài ký tên N.V.L. thể hiện ở khía cạnh: vừa là đường hướng lãnh đạo, đáp ứng đòi hỏi của tình hình, vừa phản ánh đúng nguyện vọng của nhân dân, cán bộ cả nước.
Dấu ấn và đóng góp của chuyên mục không chỉ riêng trong lĩnh vực báo chí và kinh tế – xã hội giai đoạn đầu đổi mới mà còn có ý nghĩa thời sự sâu sắc, còn nguyên giá trị đến hôm nay, trong công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh, bền vững, thực hiện thắng lợi mụctiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.
Đồng chí Nguyễn Văn Linh chính là tác giả của 31 bài báo ký tên N.V.L. trong chuyên mục “Những việc cần làm ngay” trên báo Nhân dân, lúc bấy giờ là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhân kỷ niệm 95 năm ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21-6-1925 – 21-6-2020) và kỷ niệm 105 năm ngày sinh cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (1-7-1915 –1-7-2020), Nhà xuất bản Văn hóa – Văn nghệ giới thiệu lại nguyên văn 31 bài báo của tác giả N.V.L. trong chuyên mục cùng tên “Những việc cần làm ngay”. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ
Khảo về tiểu thuyết (Tục ngữ Ca dao)
Tác giả: Nam Phong tùng thư - Phạm Quỳnh chủ nhiệm
Bộ sách Phạm Quỳnh do Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ TP.HCM và Thư viện Khoa học Tổng hợp TP.HCM phối hợp thực hiện.
Khảo về tiểu thuyết (Tục ngữ Ca dao)
“Tiểu thuyết đã là một truyện bịa đặt ra, thì phần cốt yếu trong phép làm tiểu thuyết là sự kết cấu. Kết cấu là thế nào? Kết cấu là tự không gây dựng ra, bày vẽ ra, đặt để ra, xếp các nhân vật, các tình tiết, cho có đầu đuôi, có sau trước, có mành mối, có ngành ngọn, nói tóm lại là đặt thành một truyện hiển nhiên như truyện thật, khiến cho người đọc đương lúc đọc mơ màng tưởng tượng như là việc có thực vậy. Tài nhà làm tiểu thuyết phần nhiều là ở cái tài kết cấu đó”.
“Mục đích tôi trong bài diễn thuyết này là muốn chứng rõ rằng tiếng quốc âm ta phong phú dường nào, và cái văn chương truyền khẩu của ta thanh tú biết bao nhiêu. Tiếng An-Nam ta hay lắm, các ngài ạ. Người ngoại quốc cũng phải khen là một thứ tiếng êm như ru, vui như hát, mỗi vần đánh ra năm dấu, đọc thành sáu giọng khác nhau, như trong cung đàn vậy. Tưởng không có mấy thứ tiếng hòa bình êm ái bằng tiếng ta. Vậy thì bọn ta phải nên trân trọng lấy cái quốc âm quí báu ấy, ra công tập luyện trau dồi cho mỗi ngày một hay một đẹp hơn lên, dù ta học chữ Tây hay chữ Tàu, ta cũng chớ nên quên bỏ tiếng Tổ quốc, là cái tiếng từ khi lọt lòng ra đã học nói, và đến khi hấp hối chết cũng còn nói".
Mấy năm nay ở nước ta, người làm tiểu thuyết, người đọc tiểu thuyết đã thấy nhiều. Phàm buổi mới đầu, lấy đâu được tốt. Cho nên người làm tiểu thuyết còn ít thấy hay, mà người đọc tiểu thuyết cũng chưa được sành. Lối tiểu thuyết trong văn chương ta thật là chưa có phương châm, chưa có định thể vậy. Đương lúc bây giờ, nên giải nghĩa rõ tiểu thuyết là gì, và bàn qua về phép làm tiểu thuyết ở các nước Âu Mĩ thế nào, tưởng cũng có thể giúp cho nghề tiểu thuyết ở nước ta được một đôi phần vậy.
--- 1 ---
Tiểu thuyết là một thể văn chương thịnh hành nhất đời nay. Trong các sách xuất bản ở các nước hiện bây giờ, quá nửa là sách tiểu thuyết. Trong các báo hằng ngày, hằng tuần, hằng tháng, không bao giờ là không có một phần tiểu thuyết. Tiểu thuyết thịnh hành như thế thời chắc là người đời ưa tiểu thuyết và lối tiểu thuyết là hợp với tính tình tư tưởng của phần nhiều người ta. Xét lịch sử, lối tiểu thuyết có đã lâu: ở nước Tàu thì thịnh hành từ đời nhà Nguyên; ở nước Pháp thì phôi thai từ thế kỷ thứ 13, 14; nhưng thành thể tài như ngày nay là mới bắt đầu từ thế kỷ thứ 19, nghĩa là trong khoảng hơn một trăm năm nay. Cho nên các sách lịch sử văn học Âu châu đều nói rằng “thế kỷ thứ 19 là thế kỷ tiểu thuyết” (le 19e siècle est le siècle du roman).
Nay cứ lý hội các tính cách chung của tiểu thuyết đời nay thì có thể giải nghĩa tiểu thuyết như thế này: Tiểu thuyết là một truyện viết bằng văn xuôi đặt ra để tả tình tự người ta, phong tục xã hội, hay là những sự lạ tích kỳ, đủ làm cho người đọc có hứng thú. Như vậy, thì phạm vi của tiểu thuyết rộng lắm: phàm sách gì không phải là sách dạy học, sách lý luận, sách khảo cứu, sách thi ca, thì là tiểu thuyết cả, mà tiểu thuyết có khi lại gồm được cả các lối kia, vì trong một bộ tiểu thuyết, cũng có chỗ nghị luận, chỗ khảo cứu, chỗ ngâm vịnh, chỗ khuyên răn. Cứ nghĩa hai chữ “tiểu thuyết” (……) trong sách Tàu thời lại rộng lắm nữa: phàm sách gì không phải là “chính thư” (nghĩa là sách để học, như kinh, truyện, sử, vân vân), đều là tiểu thuyết cả, nhưng tiểu thuyết đây tức là tạp thuyết, có khác với nghĩa tiểu thuyết như bây giờ. Tiểu thuyết bây giờ thì như trên kia đã giải phải là một truyện đặt ra và là một truyện có hứng thú; thường thường thời viết bằng văn xuôi, theo lối tự sự, như lời nói thường, nhưng cũng có một đôi khi viết bằng lối vận văn, như Truyện Kiều (song ít lắm, có lẽ không đâu có lối tiểu thuyết bằng vận văn giống như các “truyện” ta). Nói tóm lại, tiểu thuyết là một truyện bịa đặt mà có thú vị. Ấy cái tính cách chung của tiểu thuyết là thế. Còn thể thức thì thật là thiên hình vạn trạng. Một nhà làm sách khảo về lịch sử lối tiểu thuyết trong văn chương nước Pháp, đã nói rằng: “Lối tiểu thuyết như ông thần “biến tướng” trong truyện Hi Lạp đời xưa, thay hình đổi dạng đủ cách để làm cho người ta được hứng thú. Hoặc kể truyện phong tình êm ái mà khiến cho lòng ta phải cảm động; hoặc thuật truyện anh hùng hào kiệt mà khiến cho trí ta phải mơ màng. Hoặc tả tính tình rất tinh tế, họa chân cảnh rất xảo kỳ, đều là làm khoái trá cho tinh thần ta cả. Có khi đem ta ra ngoài những nơi kẻ chợ nhà quê mắt đã trông lắm lấy làm nhàm, mà đưa tới những phương xa cõi lạ có chim kêu vượn hót, cây đẹp cỏ thơm. Người ta chẳng qua là một lũ con trẻ lớn, cho nên dẫu là người đa tình đa cảm hay là người hiếu học hiếu kỳ, đọc tiểu thuyết cũng phải thích, vì tiểu thuyết khéo bày đặt những truyện vui truyện lạ cho ai nấy cũng phải mê”. (Véritable Protée, le roman revêt toutes les forines pour nous séduire. Il émeut notre coeur ou notre imagination avec de douces histoires d’amour et des aventures héroĩques. Il charme notre esprit par des minutieuses analyses de l’âmeet par des peintures savantes de la réalité. Il nous entraine enfin loin des villes banales et des pays trop connus vers ces lointaines contrées où d’étranges oiseaux chantent sur des arbres merveilleux. Et que I’on soit un rêveur, que I’on aime la science et la psychologie, que I’on ait une humeur aventureuse, peu importe! Le roman sait toujours conquérir les grands enfants que nous sommes en offrant à chacun ce qui flatte sa manie ou sa passion). (L.LEVRAULT. Les genres littéraires: le Roman).
Hình thức tiểu thuyết đã bất nhất như thế, thì nghề làm tiểu thuyết cũng không có phép tắc nhất định được. Thi ca có phép tắc của thi ca, diễn kịch có phép tắc của diễn kịch, ai chuyên nghề ấy, phải biết cho sành, mới khỏi lầm lẫn. Nhưng phép tắc của tiểu thuyết thì khó lòng mà giải thích cho tường được. Hoặc nói rằng tiểu thuyết cốt đặt truyện cho khéo, kể ra cho hay, là phép tắc của tiểu thuyết thì nói thế cũng chưa đủ định phương châm cho nghề tiểu thuyết được. Song tuy tiểu thuyết thiên hình vạn trạng thật, mà không phải là không có thể chia ra mấy chủng loại lớn, gồm lại mấy phương pháp ấy là nhất định, những chủng loại ấy là bất dịch, mà nên cho là biểu cái đại khái mà thôi. Vậy trước xin bàn qua về phương pháp chung của tiểu thuyết, rồi phân ra mấy chủng loại lớn mà xét riêng về mỗi loại như sau này, không dám tự phụ làm sách chỉ nam cho những nhà soạn tiểu thuyết cùng những người đọc tiểu thuyết, nhưng gọi là giải nghĩa qua về một lối văn chương mới nhóm lên ở nước ta bây giờ và sau này chắc là phát đạt to.
Lời nói đầu
Những thập niên cuối thế kỷ XIX, ở Việt Nam xuất hiện nhiều phong trào truyền bá chữ quốc ngữ, trong đó, phương tiện quan trọng để phổ biến và hoàn thiện chữ quốc ngữ chính là báo chí quốc ngữ. Nam Phong tạp chí do Phạm Quỳnh làm chủ nhiệm ra đời ngày 01/7/1917 là một trong số đó.
Phạm Quỳnh sinh tại Hà Nội, quê quán ở làng Lương Ngọc, tổng Ngọc Cục, phủ Bình Giang (nay thuộc xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Ngay sau khi đỗ đầu bằng Thành chung ông đã được bổ làm việc tại Trường Viễn Đông bác cổ (1908), sớm tham gia Đông Dương tạp chí (1913), có nhiều bài báo được độc giả đương thời chú ý. Vì nền tảng tư chất học thuật và những đóng góp, trải nghiệm thực tế đó mà Phạm Quỳnh được giao cho phụ trách Nam phong tạp chí.
Tạp chí tồn tại trong hơn 17 năm, từ tháng 07/1917 đến tháng 12/1934, chủ trương “thổ nạp Á - Âu, điều hòa tân cựu”, với tôn chỉ rất rõ ràng:Diễn đạt truyền bá tư tưởng, học thuật Đông Tây kim cổ; luyện quốc văn trở nên hoàn thiện, bồi dưỡng Việt ngữ phong phú, uyển chuyển, sáng sủa và gãy gọn…
Các tác giả của Nam Phong tạp chí khảo cứu và viết bài về triết học, khoa học, văn chương,lịch sử của Á Đông và châu Âu, dịch những tác phẩm triết học, văn học từ tiếng Pháp hoặc chữ Nho, sưu tầm và đăng tải thơ văn cổ của Việt Nam, đăng những sáng tác đương đại… Tinh thần tranh biện, phản biện, lý luận đề cao cái mới trên Nam Phong tạp chíđược đánh giá là phù hợp với yêu cầu hiện đại hóa nền văn học dân tộc nhưng vẫn có giá trị bảo tồn văn hóa, văn học truyền thống. Nhiều bài viết có tính học thuật khá cao, đến nay vẫn được tham khảo.
Ban Biên tập Nam phong tạp chí thành lập nhà xuất bản riêng, lấy tên là Nam Phong tùng thư, cùng có chung tôn chỉ, mục đích: “… dùng chữ quốc ngữ làm lợi khí để giới thiệu các học thuật tư tưởng Đông Tây cho phần nhiều quốc dân được biết ngõ hầu giúp cho cái trình độ trí thức trong nước ngày một lên cao”. Nam phong tùng thư in sách nhằm cung cấp tài liệu cần thiết cho việc học chữ quốc ngữ được dễ dàng.
Đến hôm nay, những cuốn sách tuổi đời gần trăm năm, trong đó có sách của Nam Phong tùng thư vẫn còn nằm đâu đó trong bộ sưu tập của những người đam mê sách hay được bảo quản tại hệ thống thư viện. Nhiều nhà nghiên cứu, bạn đọc, giảng viên, học sinh, sinh viên đã đến thư viện tìm đọc những cuốn sách này để tìm hiểu chữ quốc ngữ thuở ban đầu ra sao, các bậc trí thức ngày xưa đã bước đầu tham dự vào lĩnh vực học thuật, văn hóa, khoa học thế giới như thế nào… Nhưng số lượng sách có một thế kỷ tuổi đời như vậy được lưu giữ ít ỏi và quá cũ, rất khó để nhiều lượt bạn đọc có thể tiếp cận và sử dụng.
Với mong muốn khôi phục lại những cuốn sách xưa, Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ phối hợp với Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh chọn lọc và in lại một số tập sách. Đầu tiên chúng tôi chọn ra mắt bạn đọc ba cuốn sách của Nam Phong tùng thư do Phạm Quỳnh biên dịch, biên soạn, gồm:
• Lịch sử thế giới
• Lịch sử và học thuyết của Voltaire
• Khảo về tiểu thuyết - Tục ngữ ca dao
Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ
Thiệt giả giả thiệt - Đóa hoa rừng - Một đời tài sắc
Hồ Biểu Chánh
(01/10/1885-04/09/1958)
Tên thật Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh
Ông là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930.
Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh bao quát những mảng hiện thực, những nét văn hóa đặc trưng của Nam bộ vào những thập niên đầu thế kỷ XX. Đó là sự tha hóa của con người trong sự lớn lên vùn vụt của đầu óc trọng thương, là số phận đáng thương của những thường dân rơi vào cảnh cùng quẫn, là những câu chuyện thế sự giàu chất nhân văn của những con người trên vùng đất mới…
Ông đã để lại cho văn học Việt Nam một gia tài đồ sộ với hơn một trăm quyển tiểu thuyết, truyện ngắn, biên khảo… Với lối viết bình dị, ngôn ngữ gần với lời nói thường ngày, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh luôn được nhiều thế hệ người dân Nam bộ đón nhận bằng một tình cảm đặc biệt và trân trọng.
Tác phẩm này gồm ba truyện như sau: Thiệt giả giả thiệt - Đóa hoa rừng - Một đời tài sắc
Trích Thiệt giả giả thiệt
* Cô Phùng Xuân đương cảm xúc, không thể dằn lòng được nên cô mới thuật rõ tâm sự của cô cho bà Tư nghe, cô lại nói ngày cô mới lại tiệm ở may, cô thầy thuốc Cộn lại bận thử áo, người đó là vợ của người phụ bạc cô hồi trước. Bà Tư chưng hửng, ngồi ngẫm nghĩ một hồi rồi nói rằng: “Hèn chi bữa cô thầy thuốc Cộn bận thử áo cháu bợ ngợ, mà coi bộ thẹn thùa quá. Người đời nay phần nhiều họ không có tình nghĩa gì hết, miễn có tiền thì thôi. Thứ đờn ông vậy mà ra gì”.
* Cô cười mà nói rằng: “Nếu những lời ông nói đó mà thiệt có như vậy, thì cái quan niệm của ông về đạo vợ chồng kỳ cục quá. Phàm không chịu thì đừng cưới; còn nếu cưới thì phải ở trọn đời, chớ trước khi cưới mà ông đã lập tâm bỏ người ta, ông làm như vậy thì ông coi tiết giá của đờn bà rẻ quá”.
Ông thở ra mà đáp rằng:
- Tại tôi thương cô quá, nên tôi có kể gì là phải quấy.
- Ông thương tôi, sao từ ngày ông thi đậu rồi ông không bước chưn tới nhà mà thăm má tôi?
- Vừa về tới nhà thì cha mẹ ép cưới vợ bên Bạc Liêu. Tôi còn mặt mũi nào mà dám thấy mặt cô.Cô Phùng Xuân bỏ đi bắt ốc nữa, mà bây giờ mặt
cô buồn hiu.
Ông thầy thuốc Cộn, là người thông thạo tâm lý về ái tình, ông thấy cô buồn thì ông biết cô đã hết giận, ông bèn đi dan ra, để cho cô thong thả mà suy nghĩ.
Mấy cô đi trở lộn lại, song còn xa xa thì cô Huyện đã kêu hỏi cô Phùng Xuân bắt ốc được nhiều hay ít. Cô đáp rằng cô bắt được có ít con.
Ông Cộn sợ mấy cô đi tới rồi nói chuyện không được nữa, ông mới sáp lại gần mà nói nhỏ nhỏ rằng: “Cô Tư, bây giờ tôi nghĩ lại tôi nghe lời cha mẹ mà cưới vợ thiệt là tôi dại lắm. Bây giờ tôi mới hiểu tôi thấy cô làm vợ người khác thì không thế nào tôi chịu được. Tôi sẽ bỏ đứt vợ tôi. Tôi xin cô cho tôi biết coi tôi có nên nuôi cái hy vọng một ngày kia sẽ được sum hiệp một nhà với cô hay không? Xin cô đừng trả lời gấp. Cô suy nghĩ ít bữa rồi cô viết thơ cho tôi. Bao thơ cô đề tên tôi, gởi vô nhà thương Chợ Lớn thì tôi được. Miễn là cô nói “được” cho tôi sống với cái hy vọng ấy, dầu phải chờ bao lâu tôi cũng bền lòng mà chờ ”.
Cô Phùng Xuân ngó mấy chị em bạn ở xa xa rồi day qua ngó ông Cộn thì ông đứng nhìn cô, bộ buồn thảm mà quả quyết lắm. Cô thở dài một cái, ngó mông ra khơi, rưng rưng nước mắt, rồi bước chơn đi lại phía mấy chị em bạn kêu. Ông Cộn không dám đi theo, song ông đứng ngó cô và nói rằng: “Xin cô nhớ viết thơ trả lời, về đây tôi trông tin cô hàng ngày”.
* Rõ ràng tuy ông Cộn phụ bạc cô Phùng Xuân mà cưới vợ khác, song tình của cô vẫn còn thương ông như xưa. Ông Phán Thêm thấy vậy rồi nhớ lại hèn chi ngày ông nói mà cưới cô Phùng Xuân, thì cô đáp rằng tình cô đã cạn đã khô, cô sợ lấy chồng rồi cô không tròn đạo làm vợ.
Ông Phán bối rối, không biết bây giờ phải xử trí thế nào.
Có nên cắt nghĩa cho vợ hiểu ông Cộn là một tên bợm bải, lòng không ngay, tình không sạch, rồi khuyên vợ xa lánh ông hay không? Không nên. Ái tình chẳng bao giờ chịu dung nạp những lời cắt nghĩa. Mình chỉ chỗ xấu của ông Cộn thì sợ e vợ cho mình ghen mà nói xấu cho người ta, rồi chẳng những là không chịu cho ông Cộn xấu, mà lại còn chê mình hẹp hòi thấp thỏi nữa.
Có nên ngăn cấm, không cho vợ gần ông Cộn, đặng cho vợ khỏi lỗi đạo can thường hay không? Cũng không nên. Mình ngăn cấm bó buộc vợ, tuy ý mình muốn giữ gìn cho vợ khỏi lạc bước vào đường quấy, nhưng mà ai biết được hảo ý của mình, chi cho khỏi người ta nói, chồng già vợ trẻ sanh chứng ghen tuông, rồi vợ mình đã không thương mình mà lại còn oán mình nữa.
Có nên kiếm chỗ u nhàn thanh tịnh, cất nhà mà ở với vợ, đặng vợ chồng xa lánh mùi trần, khỏi nhiễm khói tục, riêng hưởng hạnh phúc gia đình chút đỉnh hay không? Cũng không nên. Vợ mình tuổi còn xuân xanh, chẳng khác nào một cái bông hường đương nở.
Nếu mình đem cái bông xinh đẹp ấy mà giấu kín một chỗ, để thưởng thức một mình, thì té ra mình vị kỷ quá, mình đã mang tội hẹp hòi, mà lại uổng cái bông xinh đẹp không ai được ngó thấy. Huống chi mình cưới vợ, mình đã có hứa với vợ rằng mình sẽ làm cho vợ vui vẻ trọn đời, có lẽ nào bây giờ mình quên lời hứa ấy, mình lo làm cho mình được vừa lòng, còn vợ thì ưu sầu khô héo.
Không được. Mình không nên phụ lời ước với vợ. Thế nào mình cũng phải lo làm cho được vợ vui vẻ, dầu sự vui vẻ của vợ phản chiếu ra sầu thảm cho mình đi nữa, mình cũng phải cam chịu. Cái tình của mình nó ở tại chỗ đó. Tình phải có khổ, có uất, thì mới sâu, mới cao. Mà bây giờ phải làm thế nào cho vợ được vui vẻ mà khỏi nhơ danh phạm nghĩa? Đó là một vấn đề ông Phán Thêm trưng ra đã mấy tuần lễ mà ông chưa giải quyết được.
Còn cô Phùng Xuân thì cô cũng cứ lờ đờ lững đững, cô cũng cứ buồn bực hoài, nhưng vì sự buồn bực của cô không có cửa ra, nên cô không biết đến chừng nào mới dứt được.
Trích Đóa hoa rừng
* Gần một tháng nay, hễ nói với Quế thì cậu Sáu xưng “tôi” và kêu Quế bằng “cô”. Hôm nay cậu đổi mà dung tiếng “qua” và tiếng “em”, hai tiếng ấy làm rung động cả tâm hồn Quế, nên Quế biến sắc trong lòng nghi, ngại, sợ, lo, lộn xộn. Quế quăng bó bẫy trên đám chồi, thủng thẳng ngồi xuống, ngồi chồm hổm trước mặt cậu Sáu. Cậu chong mắt nhìn Quế, nhìn mà không nói chi nữa hết.
* Cậu Sáu lặng thinh ngồi nhắm đóa hoa rừng một hồi, rồi cậu lắc đầu mà nói: “Chắc nay mai qua sẽ xa em; không biết xa rồi có gần lại được nữa hay không. Qua gặp em, trời xui khiến qua đem lòng thương em, qua thương như qua thương sự sống của qua vậy”.
“Khoảng đời của qua gần một tháng nay là khoảng đời vui vẻ, sung sướng, khỏe khoắn, an ổn nhứt, thuở nay qua chưa được biết. Qua muốn kéo khoảng đời nầy ra, cho thiệt dài, đặng luôn luôn sống một bên em, không thèm nhớ tới nhơn tình sự thế. Ngặt qua thiếu phước nên Phật Trời cho qua hưởng sung sướng một chút mà thôi không để qua hưởng lâu. Vậy trong giăng rừng Đường Long nầy đã quen mặt qua và bên cây dầu ngã đây chứng nhận lời qua, bữa nay qua nói cho em biết rằng dầu qua đi, song luôn luôn em ở trong tâm trí qua, chắc chắn không giây phút nào qua quên em được”.
Cậu Sáu không nói nữa. Quế liếc mặt dòm cậu thấy hai hàng nước mắt chảy dài xuống gò má cậu. Quế cũng khóc, đưa cánh tay quẹt nước mắt và thỏ thẻ hỏi: “Cậu đi đâu?”.
Cậu Sáu chau mày dụ dự rồi thở ra mà đáp: “Có biết đi đâu mà nói!”...
Quế nói tiếp: “Vậy mà tôi tưởng cậu về nhà chớ”.
Cậu Sáu ngó sững Quế, ngó chớ không nói nữa.
Quế thỏ thẻ: “Như cậu còn đi chơi nữa, thôi cậu nói với má tôi đặng dắt tôi theo nấu cơm cho cậu ăn”.
Cậu Sáu thở một hơi dài rồi lắc đầu đáp, đáp lớn: “Không được… Không thế được… Qua không nên làm khổ cho thân em”.
Cậu Sáu lấy cái khăn trắng trong túi áo ra với lau mặt cho Quế rồi cậu đứng dậy, nắm cánh tay Quế kéo đứng lên, và kéo vào nói: “Qua bậy lắm!…Nói làm chi cho em buồn… Qua ở đây, ở với em không đi đâu hết. Thôi em vui đi, đừng buồn nữa”.
Trích Một đời tài sắc:
* Hai người đều trẻ tuổi, bước đường đời còn dài. Những người theo phái vật chất thì họ đoán Thiện Ý bị song tình đưa đẩy rồi chàng sẽ theo đuổi làm cho Xuân Hương phải từ cửa Phật mà vào Động Tiên. Còn những người theo phái tinh thần thì họ đoán Thiện Ý tuy mang túi tình trịu trịu, song tình chàng cao thượng, nên không lẽ chàng dùng cái tình ấy mà đánh đổ cái tiết của chàng kính trọng đó bao giờ.
* Cô đương xần bần trong hoa viên, bỗng có chú thường xuyên ở nhà việc làng đem một tờ nhựt báo với một cái thơ lại giao cho cô. Cô cầm cái thơ mà coi ngoài bao, thấy đề tên cô, cô chắc là thơ của chị em bạn học gởi. Cô cám ơn chú thường xuyên rồi thủng thẳng trở vô nhà. Cô men men đi lại cái bàn viết đặng đọc thơ. Cô vừa ngồi lại thì thấy chơn dung của Hà Thiện Ý để trên bàn viết, cô liếc mắt ngó mà cười rồi thủng thẳng lấy cái dao rọc giấy mà rọc cái bao thơ cô mới được đó. Cô lấy cái thơ ra mà coi thì thơ như vầy:
Thạnh Hòa. Le 10 Aout 1933
Em Xuân Hương rất yêu dấu ôi!
“Mấy anh em học ở bên Tây, thấy má anh viết thơ cho anh, thường hay khen tài đức của em và khuyên anh ráng học cho thành danh, đặng chừng trở về xứ sánh duyên cùng em cho xứng đáng.
“Hồi nhỏ anh có giáp mặt em mấy lần mà không có nói chuyện gì với nhau. Từ khi anh đi Tây thì sẵn có tấm hình trong rương, hễ buồn thì anh lấy ra anh nhìn. Anh nhớ cái hình đó nung chí cho anh mới thành danh được.”
Hôm anh qua thăm chú thím, anh muốn tỏ lời tạ ơn em, song anh bợ ngợ không mở miệng được. Vì vậy nên anh phải viết bức thơ này mà bày tỏ cái tình của anh đối với em cho em biết và hứa chắc với em rằng anh sẽ hết lòng kính yêu bao bọc em trọn đời, cho tới chừng nào chết mới dứt”.
HÀ THIỆN Ý
Cô Xuân Hương đọc thơ rồi, cô xếp kỹ lưỡng mà bỏ vào túi. Cô với lấy cái hình của Thiện Ý trên bàn viết, cầm mà nhìn và miệng chúm chím cười.
* Hoàng Kiết móc túi lấy thuốc ra hút, coi bộ ngồi mết mà nói chuyện dần lân. Cô Xuân Hương bèn đứng dậy đi mở tủ lấy thuốc và hộp quẹt để trên bàn, rồi cô lại bàn viết mà đứng, không ngồi nữa. Hoàng Kiết hiểu ý chủ nhà muốn đuổi mình, nên chàng đứng dậy mà nói rằng: “Thôi, tôi xin kiếu cô tôi về. Để bữa nào có ông Hội đồng ở nhà rồi tôi sẽ qua ở nói chuyện chơi lâu”.
Hoàng Kiết từ cô rồi bước ra sân. Cô Xuân Hương đi theo ra đứng tại cửa giữa. Hoàng Kiết ngó quanh quất, thấy bên tay trái có mấy liếp hường trổ màu, mà bông nào cũng lớn thì day vô nói cô: “Cô trồng hường trổ bông đẹp quá. Xin cô cho phép tôi coi một chút. Tôi có tánh ái hoa, nên thấy hoa không thể đi được”. Chàng đi lại mấy liếp hường rờ rẫm từng bông, rồi lại day vô ngó cô Xuân Hương mà nói rằng:
- Yêu hoa thì phải để hoa trên nhành mà xem. Ngặt vì tôi không ở đây được mà xem, biết làm sao. Vậy xin cô cho phép tôi hái một bông đem về Rạch Giá làm kỷ niệm cái ngày tôi có phước mà được đến Cái Tắc.
Cô Xuân Hương gặc đầu mà thôi, chớ cô không đáp một tiếng chi hết.
Hoàng Kiết hái một cái bông hường trắng còn hàm tiếu, giắt tại túi trên áo, ngó cô Xuân Hương mà cười, rồi dở nón cúi đầu mà từ và bước lên xe.
Cô Xuân Hương trở vô, sắc mặt có vẻ buồn.
* Cô Xuân Hương nghe nói như vậy thì cô cười ngất. Ông Hội đồng tưởng nói ra cô buồn, chớ ông không dè nó cười, bởi vậy ông lấy làm lạ, ông ngó con trân trân. Cô Xuân Hương lập nghiêm lại, cô ngồi suy nghĩ một hồi rồi hỏi rằng: “Người ta nói như vậy mà coi ý bác Tổng thế nào?”.
Ông Hội đồng nín khe một lát rồi ông thở dài một cái rồi nói chậm rãi rằng: “Ý anh Tổng muốn ba làm sui với ông Huyện Trương Hà đặng cứu hết hai nhà”.
Cô Xuân Hương vùng đứng dậy hỏi lớn rằng: “Ba nói sao? Bác Tổng xúi ba gả con cho Trương Hoàng Kiết hay sao?”. Cô đứng nhìn cha trân trân. Ông Hội đồng day mặt nhìn chỗ khác.
Cô Xuân Hương gục gặc đầu và cười và nói rằng: “Mà cũng phải lắm. Nếu không làm như vậy thì có phương gì cứu hết được”. Cô thủng thẳng ngồi lại, nín khe mà suy nghĩ một hồi lâu rồi cô chậm rãi hỏi rằng:
- Bác Tổng muốn như vậy, còn ý ba thế nào, ba chịu hay không?
- Cái đó tự nơi con liệu. Con đành đâu thì ba gả đó không ép duyên con.
Cô Xuân Hương suy nghĩ một hồi nữa rồi cô nói rằng: “Việc này là việc quan hệ, con xin phép ba cho con suy nghĩ một đôi ngày rồi con sẽ trả lời”.
Ông Hội đồng biết con đau đớn trong lòng lắm, nên ông lặng thinh, không nói chi nữa.
Hai cha con vô nhà đóng cửa đi ngủ. Ông Hội đồng vô mùng nằm êm ru, nhưng mà ông không nhắm mắt được. Còn cô Xuân Hương cô vô phòng riêng của cô, cô đốt đèn để trên cái bàn nhỏ rồi cô ngồi ngó ngọn đèn, hai hàng nước mắt chảy ròng ròng.
Làm thân con gái thuở nay lo ăn học, quyết học cho nên danh, đặng trước đẹp mặt nở mày cho cha mẹ, sau lấy chồng đồng tâm đồng chí. Thuở nay ôm ấp cái hy vọng làm tròn ơn tròn thảo với kẻ có công sanh thành, giữ trọn nghĩa trọn tình với người cha mẹ đã chọn lựa.
Nay học đã nên danh rồi, chỉ còn cái căn duyên nữa, nếu căn duyên xuôi thuận, thì đường đời đấm ấm, tiền tình rực rỡ, vui vẻ biết chừng nào.
Nào dè, đời tài sắc là đời đắng cay, kiếp con người là kiếp thống khổ, nếu trọn tình thì phải mất hiếu, nếu trọn hiếu thì phải mất tình, biết liệu làm sao bây giờ? Quyết nắm chặt lời giao ước của cha mẹ hai bên, tuy Thiện Ý chưa có lễ gì, nhưng mà bấy lâu nay cha mẹ thường chỉ người đó là nói là chồng mình, thì bây giờ mình biết một người đó mà thôi, dầu thế nào mình cũng quyết kết bạn trăm năm với người đó, chớ mình không đành nơi nào khác.
Quyết như vậy thì mình trọn nghĩa trọn tình; cha chả mà quyết như vậy thì mình được phần mình, rồi hai cái gia đình đều toang hoang hết, mẹ mình buồn rầu chắc chết gấp, hai em mình không tiền mà học nữa, cha chồng mình nhục nhã ắt phải vô chùa mà tu.
Vui phận mình mà buồn nhiều người, vui làm sao cho đặng? Rõ ràng bên hiếu nặng hơn bên tình nhiều lắm. Thí một đời mình trả thảo cho cha mẹ, lại trả thảo luôn cho bên chồng nữa, thì còn dụ dự nổi gì. Huống chi cha chồng mình cũng muốn cậy mình thì thân mình phải vui mà thí, chớ sao lại buồn rầu.
Cái đời mình hữu dụng là nhờ có dịp này, chẳng nên bỏ qua cái dịp tốt ấy. Mình coi kinh Phật thường thấy câu: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc; tan tức là hiệp, hiệp tức là tan”.
Chắc kiếp này con tội lỗi nhiều, nên Phật Trời mới khiến căn duyên mình lỡ dở. Vậy kiếp này mình nên chịu khổ về nỗi “tan” đặng kiếp sau mình được hưởng cái “hiệp”.
Cô Xuân Hương suy nghĩ tới đó rồi trong lòng cô thơ thới, nước mắt hết chảy ra nữa. Cô dẹp đèn mà đi ngủ.
Sáng bữa sau, cô vui vẻ như thường, cha lấy làm kỳ, còn mẹ với hai em không dè trong nhà có việc biến. Tối lại, cô đợi trong nhà ngủ hết, cô mới thưa với cha rằng: “Thưa ba, việc ba tỏ với con hôm qua đó, con đã suy nghĩ kỹ rồi. Con đành làm dâu ông Huyện Trương Hà. Vậy con xin ba trả lời hứa làm sui với người ta đi”.
Ông Hội đồng Nghiệp nhìn con, ông rưng rưng nước mắt mà nói rằng: “Ba biết con đau đớn lung lắm… Mà ba còn đau đớn nhiều hơn con nữa… Gia bần tri hiếu tử. Con trả ơn sanh thành nặng nề hơn người ta biết bao nhiêu!”
Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ gồm 7 tập - 12 quyển. Dự kiến thực hiện trong vòng 2 năm (2020-2021). Và 4 quyển đầu tiên của tập 1 - Truyện kể dân gian Nam bộ sẽ phát hành đầy đủ vào đầu tháng 7.2020.
Tập 1 - Truyện kể dân gian Nam bộ gồm 4 quyển:
- Quyển 1:
Sự tích thần kỳ và hoang đường
- Quyển 2:
Truyền thuyết địa danh và thôn xã
Truyền thuyết về giai thoại và thú dữ
Truyền thuyết lịch sử thời chúa Nguyễn, Tây Sơn và nhà Nguyễn
Truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa chống Pháp
- Quyển 3:
Giai thoại văn nghệ
Cố sự thời thuộc địa
- Quyển 4:
Truyện ngụ ngôn
Truyện cười
Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ gồm 7 tập - 12 quyển. Dự kiến thực hiện trong vòng 2 năm (2020-2021). Và 4 quyển đầu tiên của tập 1 - Truyện kể dân gian Nam bộ sẽ phát hành đầy đủ vào đầu tháng 7.2020.
Tập 1 - Truyện kể dân gian Nam bộ gồm 4 quyển:
- Quyển 1:
Sự tích thần kỳ và hoang đường
- Quyển 2:
Truyền thuyết địa danh và thôn xã
Truyền thuyết về giai thoại và thú dữ
Truyền thuyết lịch sử thời chúa Nguyễn, Tây Sơn và nhà Nguyễn
Truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa chống Pháp
- Quyển 3:
Giai thoại văn nghệ
Cố sự thời thuộc địa
- Quyển 4:
Truyện ngụ ngôn
Truyện cười
Giấc mơ bay
Tác giả: Châu Hoài Thanh
Tên thật: Nguyễn Thị Thư
Sinh ngày: 10/10/1966
Quê quán: Vĩnh Linh - Quảng Trị
Hiện sống và làm việc ở Thành phố Vũng Tàu.
Giấc mơ bay
Trẻ nhỏ luôn hồn nhiên trong suy nghĩ lẫn hành động, và ngay cả trong giấc mơ thì vẫn không tồn tại thứ rào cản nào có thể làm mờ đi những tâm hồn thuần khiết ấy với ngập tràn tình yêu thương dành cho gia đình, bè bạn,…. cũng như những ước ao nhỏ bé mà đôi khi người lớn vô tình lướt qua giữa bộn bề lo toan cuộc sống.
Đến với tập truyện dài thiếu nhi "Giấc mơ bay" vừa được Nhà xuất bản Văn hóa Văn nghệ phát hành nhằm phục vụ nhóm độc giả là các em học sinh độ tuổi từ 6 đến 12 trong dịp nghỉ Hè 2020, chúng ta sẽ có dịp đồng cảm với nhân vật chính là cậu bé trai nhà nghèo tên Hiếu và người bạn Gấu vốn được mệnh danh là cậu bé sung sướng qua những tình tiết, nội dung được tác giả Châu Hoài Thanh lật tả nhẹ nhàng, sâu lắng.
Nội dung thấm đẫm tình cảm của truyện cùng lối hành văn rất chân phương của tác giả vốn dĩ là một nhà giáo nữ, đôi khi cũng có thể khiến người lớn rơi nước mắt nếu có dịp đọc cùng bọn trẻ bởi trong thông điệp mà Giấc mơ bay muốn truyền tải "dưới ánh mắt con trẻ, sự hồn nhiên, khát khao vui đùa, học tập và kết giao hữu hảo, đã và đang dường như không tồn tại cái gọi là khoảng cách giàu nghèo, sang hèn,..." chính là những hàng rào cảm xúc cá nhân mà người lớn đã vô tình tạo ra.
Đó là việc Hiếu luôn nhủ lòng tuyệt đối không được dòm, không được đặt chân sang vỉa hè,, con phố của xóm nhà lầu đối diện cái dãy trọ đủ mọi thành phần mà cậu và mẹ đang sống. Hiếu sợ ma lá, bởi má và ông ngoại, đều có một ác cảm gì đó rất khó hiểu với những người được gọi là nhà giàu.
Bạn của Hiếu trong xóm, ban đầu chỉ là con Hiệp, thằng Huy... và rồi sau đó là sự xuất hiện của Gấu. Căn phòng thiên đường của Gấu, sự cởi mở của cậu bé với thằng bé đầu đường xó chợ như Hiếu, như nguồn sáng cho những vận hội, tư tưởng mới đơm chồi trong Hiếu.
Hiếu biết chữ, do ông nội của Gấu dạy, còn Gấu thì dạng dĩ hơn, hiểu hơn về cuộc sống ngoài kia bước tường của căn nhà to vật vã, và ước mơ của cả hai, xuất phát từ nhịp đập con tim nhân tạo của Gấu, từ sự chân phương mà Hiếu mang lại, từ nhận thức đại đồng Lá lành đùm lá rách, từ dạt dào tình mẫu tử,... là sự ra đời của dự án Ngôi Nhà Chung để những đứa trẻ, những mảnh đời nhỏ khó khăn, đứa mất cha đứa còn mẹ, không được đến trường vì phải phụ mẹ giúp ba mưu sinh,..
Chưa dừng lại ở đó, tác giả Châu Hoài Thanh đã uyển chuyển vào diễn tiến của tình bạn Hiếu - Gấu là những trang nhật ký của cô Ba Vẹo (mẹ Hiếu) và của cả Hiếu.
Những con chữ, những cảm xúc dằn nén trong tâm can, xen lẫn những dòng nước mắt, của sự giận sự thương và cả nỗi nhớ, tất cả mang đến cho người đọc một sự đồng cảm tuyệt đối như câu chuyện về Hiếu, và ba, về má được uyển chuyển hé lật, hấp dẫn đến khôn tả.
Những câu nói của Gấu, ở buổi ra mắt Ngôi Nhà Chung, khiến ai cũng ngấn lệ. Một ngôi nhà, để mọi đứa trẻ như Huy, Hiệp, Hiếu đều có cha có mẹ, được đi học, còn Bà Tư, chị Thiện Nhân, bà ngoại của cô bé Hiệp, cô Ba Vẹo (má Hiếu), chị Ba Sương từ nay không còn là hàng xóm khu trọ, mà trở thành những thành viên trong một gia đình,.. ngập tràn yêu thương.
Và, thật bất ngờ, ngọn lửa yêu thương cháy bỏng của Gấu lại xuất phát từ một trái tim nhân tạo, và hơn bao giờ hết, qua tập truyện, mọi người chúng ta tự hào rằng, một trái tim, dù nhân tạo, vẫn là trái tim, vẫn đập từng nhịp, vẫn đồng điệu với thế giới này và phản ánh khách quan bản chất cốt lõi của con người, dù già dù trẻ, là tình yêu thương, là sự sẻ chia với bè bạn, gia đình và mọi người xung quanh.
Một truyện dài thiếu nhi, đáng đọc cho cả con trẻ lẫn chúng ta người lớn, dù có thể, chúng ta đang là ba mẹ của vài ba đứa trẻ trạc tuổi Hiếu, và Gấu.
Trích đoạn sách:
Điều thứ hai mà cô nghĩ tới là sẽ đốt ngay mảnh trăng màu huyết và tất cả những trang nhật ký của cô và thằng Hiếu. Cô sẽ tự mình kết thúc chuỗi ngày sống trong mơ hồ của hai thái cực và chính cô cũng sẽ giúp thằng Hiếu quên đi những giấc mơ ám ảnh. Hơn lúc nào hết, Hiếu và lũ trẻ rong đang khát khao tình yêu gia đình. Cô và những người lớn khác sẽ là người giúp lũ trẻ thực hiện niềm khát khao ấy bằng tất cả những gì tất cả những gì có thể.
Hôm nay là ngày sinh nhật con. Mười hai tuổi con mới có ý niệm về điều này. Bánh và nến con đã vẽ sẵn. Con sẽ cho nó thêm phần màu sắc, xanh và đỏ ba nhé. Lớp kem sẽ dày hơn bánh sinh nhật của Gấu. Chiếc bánh không quá lớn để ba phải mất nhiều tiền nhưng nó sẽ cũng không quá nhỏ để đủ phần con chia cho tụi bạn. Ba đốt nến đi. Con sẽ thổi và hát bài mừng sinh nhật. Những ngọn nến lung linh, tỏa sáng khắp gian phòng. Con Hiệp và thằng Huy rồi sẽ phát cuồng khi nhìn thấy điều này ba nhỉ. Ba bắt nhịp đi để con hát. Bài hát chạy dài theo thời gian. Con hay quên, không thuộc hết lời nhưng nhưng tình yêu mà ba dành cho con thì con không bao giờ quên được. Bàn tay ba xòe ra ấm áp. Ba ôm con vào lòng.
“…Những ngón tay run run chạm khẽ vào chiếc ấm đất, màu men tím thẫm ngả sang ánh tối rồi dựng lại ở vệt trắng mờ cong cong như cánh hoa khô… Nó chỉ dùng pha duy nhất một loại trà… Đây là chiếc ấm đất Tử Sa nhưng pha thêm chút tro hoa bưởi… Trà xuân núi Ngọc ướp hương bưởi rừng Thung Mây không chỉ thơm mùi hoa mà còn tròn nguyên vị sương của núi, nó chát đằm mà mượt như lụa, vừa nồng nàn hối hả như thời gian hữu hạn, lại êm và ngọt lửng lơ lững thững như khí xuân chưa muốn giao mùa…”
(Trích Hoa gạo đáy hồ).
Phương pháp phê bình điện ảnh
Tác giả: Trần Luân Kim
Nhà nghiên cứu, lý luận phê bình Điện ảnh
Nguyên Viện trưởng Viện phim Việt Nam
Đã xuất bản 10 cuốn sách, trong đó 6 cuốn sách, trong đó 6 cuốn là đồng tác giả
Phương pháp phê bình điện ảnh
Lý luận - phê bình điện ảnh đồng hành và hỗ trợ sáng tác điện ảnh
Quyển sách Phương pháp phê bình điện ảnh của tác giả Trần Luân Kim đã đạt giải Nhì Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh 2012 – 2017, gồm 4 phần: Chế tác phim truyện - Sơ thuật mấy vấn đề cơ bản; Phê bình phim truyện - Phương pháp và nội dung; Thực hành phê bình phim; Những bài phê bình phim.
Mở đầu
Là nghệ thuật tổng hợp nhiều cấp độ, nội hàm ĐIỆN ẢNH bao chứa các nội dung hoạt động với nhiều chuyên ngành khác biệt nhau. Trong đó, mỗi hoạt động hoặc mỗi chuyên ngành đều dung nạp khối lượng lớn kiến thức cùng hệ thống thủ pháp và kỹ năng thể hiện nghệ thuật hết sức phong phú, đa dạng. Lĩnh vực LÝ LUẬN - PHÊ BÌNH ĐIỆN ẢNH, vì thế cũng trở nên đặc biệt rộng lớn và phức tạp.
Con đường tiếp cận, nghiên cứu điện ảnh thông qua lý luận - phê bình là con đường dài nhiều chặng, xuyên suốt các lĩnh vực hoạt động tổng hợp của điện ảnh; từ các yếu tố liên quan đến văn học, nghệ thuật tạo hình, dàn dựng cảnh, xử lý không gian thời gian, chọn lọc âm thanh, nghệ thuật diễn xuất... đến các vấn đề thuộc về tài chính, thương mại, cùng các lĩnh vực khác như vật liệu ghi hình, kỹ thuật tiền kỳ, hậu kỳ, phương thức quảng bá, v.v... Riêng lĩnh vực nghệ thuật, để nghiên cứu thấu suốt nghệ thuật điện ảnh, người ta không thể không đề cập tới hàng loạt vấn đề liên quan trực tiếp như mỹ học điện ảnh, tâm lý điện ảnh, ký hiệu điện ảnh, lịch sử điện ảnh, xã hội học điện ảnh,... Phạm vi rộng lớn của nội hàm điện ảnh đặt công tác lý luận phê bình điện ảnh vào một vị thế vừa chông chênh khó nhọc, vừa tinh vi lý thú.
Lý luận điện ảnh và phê bình điện ảnh là hai phạm trù gắn kết, hỗ trợ nhau chặt chẽ, không thể tách rời. Chính vì vậy, trước khi đề cập sâu lĩnh vực phê bình điện ảnh, thiết tưởng, tìm hiểu một số vấn đề lý luận cơ bản về nghệ thuật điện ảnh có mối liên quan trực tiếp đến phương pháp phê bình điện ảnh, là việc cần thiết.
Tác phẩm điện ảnh (rộng hơn là tác phẩm nghe - nhìn) tác động trực tiếp đến quảng đại công chúng, do đó lý luận điện ảnh có mối tương quan mật thiết với tiến trình phát triển xã hội. Sự đa dạng, phức tạp của xã hội, vì thế cũng in dấu đậm nét lên sự đa dạng, phức tạp của lý luận điện ảnh. Hoàn cảnh và các điều kiện khác nhau của xã hội quyết định đặc trưng cơ bản của lý luận điện ảnh. Lý luận điện ảnh phụ thuộc vào hình tượng điện ảnh, và hình tượng điện ảnh cũng đồng thời chịu sự chi phối sâu sắc của xã hội, tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến nhận thức xã hội, tạo nên nguồn tác động hữu ích hai chiều. Từ đó có thể xác định rằng, lý luận điện ảnh là môi giới tích cực giữa hình tượng điện ảnh với xã hội. Cũng có thể nói khác: hình tượng điện ảnh là chốn ký thác tinh thần và tình cảm của các cá thể trong xã hội; qua đó mà thấu hiểu mình thông qua việc tham chiếu hình tượng điện ảnh.
Hình tượng điện ảnh là những mảnh vụn được kết nối từ lịch sử lịch sử của quá khứ và hiện tại. Chúng được ghép lại, qua lý luận phê bình điện ảnh, giúp ta nhận diện một phần lịch sử. Lý luận điện ảnh giải phẫu hình tượng điện ảnh, và góp phần kích thích lịch sử phát triển. Khi một hình tượng điện ảnh được đông đảo công chúng hoan nghênh, chứng tỏ nó đã làm tròn nhiệm vụ phản ánh một tâm lý xã hội tương đối phổ biến nào đó. Thông qua phân tích hình tượng, người ta có thể phát hiện và lý giải những mạch tâm lý ẩn chìm, và từ đó có thể cảm nhận nhịp đập của xã hội.
Lý luận điện ảnh đóng vai trò trọng yếu trong việc giải mã những ẩn tàng của nghệ thuật biểu đạt điện ảnh. Nghệ thuật điện ảnh thông qua hư cấu, tạo ra những dạng thái và hình tượng xã hội; được lý luận điện ảnh soi chiếu, phản ánh.
Lý luận - Phê bình điện ảnh là cây cầu, nối liền nghệ thuật điện ảnh với công chúng và xã hội. Vai trò quan trọng của lý luận điện ảnh là hướng đạo sự xuất hiện các hình tượng khác nhau; đồng thời luận giải xác đáng các hình tượng đó trước công chúng.
Giới lý luận điện ảnh phân chia nội hàm lý luận điện ảnh ra hai mảng chính: lý luận truyền thống và lý luận hiện đại. Lý luận điện ảnh truyền thống lấy phân tích tinh thần và phê bình hình thái ý thức làm trụ cột. Nó chủ yếu đề cập đến tác giả, tính hiện thực, tính giáo dục và tính thẩm mỹ. Lý luận điện ảnh hiện đại chủ yếu sử dụng hệ thống lý luận về ký hiệu học, về phân tích tinh thần, phê bình hình thái ý thức, chủ nghĩa nữ quyền và chủ nghĩa hậu hiện đại... Lý luận điện ảnh hiện đại khởi phát cuộc cải cách phương pháp tư duy, quan sát điện ảnh từ góc độ ký hiệu học. Dòng lý luận này tuy chưa hoàn thiện, song về bản chất, mang tính phê phán và cải cách rất đậm nét. Nó đào sâu các vấn đề về bản tính điện ảnh cùng mối quan hệ giữa điện ảnh với xã hội, làm thay đổi quan niệm truyền thống về bản chất của mối quan hệ giữa nghệ thuật điện ảnh với hiện thực đời sống. Cả hai, lý luận điện ảnh hiện đại và lý luận điện ảnh truyền thống đều cùng song hành tồn tại, hình thành một cấu trúc lý luận tổng hợp. Tuy cả hai không thể hòa vào nhau thành một thể hệ lý luận thống nhất và hoàn chỉnh; song chúng có thể tham chiếu nhau, tạo ra mối quan hệ đa chiều; cung cấp cho xã hội nhiều khả năng lưa chọn, giúp lý giải điện ảnh từ nhiều góc độ phong phú khác nhau.
Ở Việt Nam, lý luận điện ảnh tiến bước chậm trễ. Mặc dù nền điện ảnh dân tộc đã hình thành và phát triển, cho đến nay đã ngót 60 năm, vẫn chưa xây dựng được hệ thống lý luận riêng. Trong nhiều năm, hoạt động điện ảnh Việt Nam phát triển chủ yếu dựa vào đường lối văn nghệ của đất nước cùng hệ thống lý luận chuyên ngành chủ yếu đến từ Liên Xô. Lý luận điện ảnh Việt Nam, như vậy, cũng chưa xây dựng được cơ sở lý thuyết cơ bản, ngay cả ở lĩnh vực thông dụng nhất là nghệ thuật chế tác phim. Trong hoàn cảnh đó, khi một phần lý luận điện ảnh hiện đại từ bên ngoài thâm nhập vào, điện ảnh Việt Nam chưa sẵn sàng điều kiện để tiếp thu chủ động và có chọn lọc. Quan niệm chi phối lâu nay ở ta coi điện ảnh là công cụ nhằm đạt tới các mục tiêu về đạo đức chính trị xã hội; đòi hỏi điện ảnh phải hàm chứa tính xã hội nổi bật, trên thực tế hình thành lý luận điện ảnh và xã hội. Trong điều kiện đó, tính thương mại đơn thuần trong điện ảnh không được khuyến khích, mà đòi hỏi yếu tố thương mại cũng phải phục vụ các mục tiêu lành mạnh của xã hội. Hiện nay, chúng ta cần từng bước hình thành cơ sở lý luận cơ bản cho nền điện ảnh dân tộc. Cần kết hợp lý luận điện ảnh truyền thống với lý luận điện ảnh hiện đại; vận dụng phù hợp với hoạt động thực tiễn; đồng thời đáp ứng tích cực nhu cầu phát triển của điện ảnh nước nhà trong tương lai gần và xa. Theo các bài viết giới thiệu phê bình phim đã được đăng tải trên các phương tiện đại chúng thời gian qua, có thể thấy, đặc điểm phương pháp lý luận của số đông tác giả là không thâm nhập sâu vào cấu trúc mỹ học của bộ phim, mà chỉ dừng sự quan tâm ở nội dung cũng như giá trị, khía cạnh văn học - xã hội của tác phẩm đó. Nhiều tác giả đã chú trọng phân tích hình thái ý thức của tác giả phim và tác phẩm. Và khi phân tích hình thái ý thức thì nhiều tác giả có xu hướng đi sâu vào mối quan hệ giữa dục vọng con người với quy phạm xã hội. Do tồn tại hiện tượng thiên lệch trong phân tích, không lấy ngôn ngữ biểu hiện làm trung tâm, nên phần lớn các bài phê bình phim chưa thực sự đụng chạm đến những vấn đề bản chất của nghệ thuật điện ảnh.
Trích đoạn:
Tính năng giải trí của điện ảnh
Người xem bình thường đều có nhu cầu giải trí khi thưởng thức điện ảnh. Họ coi điện ảnh là phương tiện giải tỏa các áp lực đời sống hàng ngày, an ủi những ước mơ không thể thực hiện được trong đời sống. Có người coi trọng công năng xã hội của điện ảnh, chủ trương gắn liền chức năng giải trí cùng chức năng giáo dục; thực hiện đạo đức hóa, cao thượng hóa, thể chế hóa giải trí.
Song cũng có người chủ trương đơn thuần hóa chức năng giải trí, tuyệt đối hóa vai trò giải trí của điện ảnh, rằng điện ảnh chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ đơn thuần của người xem, không có quan hệ gì với những vấn đề đạo đức xã hội và thẩm mỹ; vì nó đáp ứng bản năng của con người. Họ nhấn mạnh rằng người mua vé đến rạp chỉ cốt để mua vui, mà mua vui thì không cần gì khác ngoài cái lạ, cái khác thường và sự kích động. Đây là quan điểm cực đoan, biểu hiện của sự dễ dãi, bế tắc trong đường hướng và khả năng chế tác những tác phẩm có giá trị đích thực, đủ sức lôi cuốn đông đảo người xem. Giải trí là chính đáng, nhưng luôn cần đi đôi với đạo đức, làm cho con người phấn chấn, thoải mái và hướng thiện hơn.
* Qua kết quả điều tra và nghiên cứu thực tiễn, có thể phân khán giả điện ảnh thành bốn nhóm sau:
1. Phần lớn thích những truyện phim éo le có nhiều tình tiết hoạt náo.
2. Giới nữ say mê những câu chuyện khơi gợi tình cảm, gây động lòng.
3. Một bộ phận thích những cốt truyện hàm chứa không gian, thời gian dài rộng để có điều kiện theo dõi các thân phận và cá tính đặc biệt của nhân vật.
4. Khán giả trí thức chuộng những tác phẩm xây dựng được hình tượng nổi bật và có ý nghĩa sâu lắng, được xử lý nghệ thuật sắc sảo.
* Đối với phim truyện, những yếu tố được phần đông người xem ưa thích thường là:
- Có tựa đề gây chú ý.
- Có sự tham gia của diễn viên nổi tiếng.
- Có nhân vật bất hạnh, tạo thương cảm.
- Có nhân vật người hùng kiệt xuất, đủ tài trí vượt qua mọi chướng ngại hiểm nguy để giành chiến thắng.
- Có nhiều sự kiện căng thẳng gây hồi hộp.
- Tạo được hấp lực, cuốn người xem vào những tình tiết ly kỳ.
- Nghệ thuật thể hiện cao tay giấu kín được các tình tiết trọng yếu, khiến người xem phút chốc lạc bước trong suy đoán của mình.
- Đem đến ấn tượng khó quên sau khi xem xong phim.
Phim làm ra phải có người xem và có càng đông. Đó là quan điểm hợp thời.
Nhân vật điện ảnh
Trong sáng tác và chế tác điện ảnh, nhân vật là nhân tố trung tâm. Nói cách khác, khắc họa nhân vật là lao động sáng tạo quan trọng bậc nhất và cũng khó khăn, tinh tế bậc nhất đối với tác giả điện ảnh.
Nhân vật trong phim vừa là hạt nhân thuật kể, là động lực triển khai cốt truyện; vừa là hạt nhân của xung đột kịch tính, là cơ sở tạo hình của tác phẩm. Nhân vật trong phim được đặt trong đòi hỏi cơ bản là phải đại diện cho một loại người nào đó; phải có tính cách rõ nét, tuyệt nhiên không phải là mẫu người chung chung; được thể hiện nổi bật qua hệ thống tình huống, sự kiện, và đối thoại tiêu biểu. “con người” ở đây được hiểu là con người tự nhiên, con người xã hội. “Nhân vật” ở đây là mẫu người được hư cấu và là ký hiệu của kết cấu kịch, là hình tượng điện ảnh do diễn viên sáng tạo nên. Trong tiềm thức mọi người, nhân vật là diễn viên, là vai diễn.
Tác giả: Iris Lê
Iris Lê tên thật Lê Quỳnh Phương, sinh ngày 1/11/1994, bắt đầu làm thơ từ năm 6 tuổi, đã tốt nghiệp ngành Ytá tại Đại học Nam Úc. Đang làm việc tại Bệnh viện Royal Adelaide, là người mẫu của công ty Finesse Modelling và từng đoạt giải cuộc thi Hoa hậu Áo dài của Adelaide Nam Úc.
“Thay lời tri ân đến những đồng nghiệp của tôi, đã và đang chiến đấu với giặc Covid – 19, quyển sách này như một tập nhật ký, ghi lại hiện thực đau đớn của một giai kỳ mang tính lịch sử kéo theo những sự kiện vô tiền khoáng hậu, và những mất mát lớn về nhân mạng, tổn thất về kinh tế nặng nề. Hy vọng, Covid – 19 sẽ để lại nhiều bài học cho thế giới và là tiền đề để có những kế hoạch phòng chống và kiểm soát dịch bệnh hiệu quả hơn trong tương lai”. – Iris Lê
Có nỗi buồn gieo mầm nhân ái (Nhật ký y tá thời Covid-19)
Tựa
1. Khi nhận lời biên tập và viết Tựacho một tác giả mới, thú thật, bao giờ tôi cũng âu lo. Lo rằng, tác phẩm ấy có “sạch nước cản”, có xứng đáng để giới thiệu với công chúng? Lần này, với tiểu thuyết (hay tự truyện?) của Iris Lê, tâm trạng này vẫn không có gì khác trước. Và tôi đã đọc. Kỳ lạ, ngay từ đầu những dòng chữ của cô có sức hấp dẫn và cuốn hút mãnh liệt. Tôi đọc một hơi. Tôi đọc một lèo. Gấp lại trang bản thảo. Gió hun hút về chiều. Ngoài kia, chiều đã sẫm. Đột nhiên, mơ hồ thấy đâu đó có chút ánh sáng dẫu le lói nhưng vẫn rực rỡ đến nao lòng.
Có nỗi buồn gieo mầm nhân ái của Iris Lê đã đem đến cho tôi cảm giác ấy.
2. Có thể nói rằng, đây là một trong những cuốn sách lấy bối cảnh khi toàn thế giới đang đối đầu, choáng váng với đại dịch COVID-19 đã khiến người đọc ngẫm nghĩ mãi. Iris Lê đã viết với tư cách là người trong cuộc - thông qua nhân vật Mia đấy chăng? Tôi nghĩ thế. Bạn có nghĩ thế?
Hãy đọc đi. Đọc để thấu hiểu thêm tấm lòng của các y, bác sĩ đã tận tụy phục vụ người bệnh. Iris Lê kể thật chi tiết, dù nhỏ nhất từ cách đeo mặt nạ N95 đến lúc phải xa gia đình nhằm tránh lây nhiễm; từ lúc phải đối mặt với sự kỳ thị của người chung quanh đến những buồn vui trong nghề y...
Mà, câu chuyện không chỉ có thế.
Ở đây, còn là những suy tư thầm kín, những suy nghĩ của người Việt xa xứ trong va chạm bản sắc văn hóa khi ngụ cư ở nước ngoài; là sự xáo trộn trong quan hệ cùng một cộng đồng đã diễn ra trong “mùa diệt vong” - mùa COVID; là tình người nương vào nhau trong những ngày tháng đen tối ấy. Từng mẩu chuyện nhỏ đầy kịch tính khiến có lúc ta nhói lòng, thở dài… Iris Lê đã kể lại nhẹ nhàng, không “lên gân”, nhờ thế, bức tranh nhiều tâm trạng, nhiều cảm xúc đã quyện vào nhau hài hòa để lôi cuốn con mắt người đọc phải lướt theo, bám theo từng dòng chữ…
Có thể nói, đây là một tiểu thuyết đáng chú ý khi viết về chủ đề “có nỗi buồn gieo mầm nhân ái”. Ánh sáng nhân ái đó, có lúc mờ đi, nhạt dần nhưng chắc chắn không biến mất trong đời sống này. Vâng, những ngày COVID-19 tại Việt Nam, trong nỗi âu lo của từng nhà, từng người, chúng ta đã chứng kiến nhiều tấm lòng thơm thảo đang cùng cộng đồng chung tay sẻ ngọt chia bùi. Một trong những “sáng chế” ấn tượng, phù hợp với quy định phòng chống dịch, với tôi vẫn là chiếc máy phát gạo miễn phí có tên gọi “ATM gạo” hoạt động 24/24. Hay trong giai đoạn 2 phòng chống dịch tại Việt Nam. “ATM gạo” lại trở thành “ATM khẩu trang”.
Còn tại Úc thế nào?
Iris Lê cho biết: “Bên cạnh những mảng màu đen trong bức tranh toàn cảnh về đại dịch COVID-19 còn có những điểm sáng, dù là rất nhỏ nhưng vẫn đủ để khiến người chiến sĩ nơi tuyến đầu thấy ấm lòng. Đó là những khách sạn bắt đầu mở cửa tài trợ chỗ ở miễn phí cho các y tá và bác sĩ trực tiếp chăm sóc bệnh nhân COVID-19.
Đó là những chiến dịch “Nhận nuôi nhân viên y tế” trên Facebook với hơn chục nghìn lượt thích và theo dõi ở từng bang của xứ sở chuột túi. Tất cả bắt nguồn tại Perth, khi Chris Nicholas bắt đầu một nhóm “Nhận nuôi nhân viên y tế” trên Facebook: “Tôi và mẹ tôi muốn nhận nuôi những nhân viên y tế. Mẹ tôi là một đầu bếp giỏi. Tôi là một giáo viên hưu trí, con cái đã lớn và ở riêng. Nếu bạn cần chúng tôi giúp nấu ăn, đi chợ, giữ trẻ em, hay đảm nhận việc giặt giũ, dắt chó đi dạo, thì hãy liên hệ với chúng tôi qua tài khoản này.
Cảm ơn bạn vì đã ở trong số những người đứng đầu chiến tuyến, chúng tôi luôn nghĩ đến bạn”.Và đó chỉ là một trong số hàng trăm, hàng nghìn những mẩu tin khác tương tự như vậy. Vào những thời điểm đen tối nhất, khi cảm thấy bị kéo xuống đáy của vũng bùn tuyệt vọng, Mia lại click vào những trang Facebook ấy, và cô bất giác mỉm cười, cảm thấy như có những ngọn lửa nhỏ sưởi ấm lòng mình”.
Những ngọn lửa nhỏ ấy, bao giờ cũng hiện diện quanh ta. Đọc xong nhật ký Có nỗi buồn gieo mầm nhân ái (Nhật ký y tá thời COVID - 19), một lần nữa điều hướng thiện này lại càng được xác tín đầy thuyết phục. Các nhân vật như Mia, Xie Liu, Anna, Joan, Faith, mẹ của Mia... trở nên gần gũi trong tình cảm người đọc là còn vì lẽ đó.
3. Đọc một tác phẩm gần như đầu tay của tác giả mới, bao giờ tôi cũng nghĩ về hành trình về sau của họ. Có thể nhìn thấy bằng phán đoán lý tính. Nhìn thấy bằng sự linh cảm. Với Có nỗi buồn gieo mầm nhân ái, tôi linh cảm Iris Lê sẽ còn đi xa nữa, nếu cô bền bỉ nhận lấy công việc viết lách như khí trời để thở, chứ không vì lý do gì khác. Nếu thế, từ đây, cộng đồng viết văn ở hải ngoại đã có thêm một tác giả mới, xứng đáng được gọi nhà văn. Được biết Iris Lê tên thật Lê Quỳnh Phương, sinh ngày 1/11/1994, bắt đầu làm thơ từ năm 6 tuổi, đã tốt nghiệp ngành Ytá tại Đại học Nam Úc. Đang làm việc tại Bệnh viện Royal Adelaide, là người mẫu của công ty Finesse Modelling và từng đoạt giải cuộc thi Hoa hậu Áo dài của Adelaide Nam Úc.
Nếu Iris Lê trở thành nhà văn, điều này có nghĩa gì không? Tôi không biết. Nhưng biết chắc chắn rằng, dù ở chân trời góc biển nào, chúng ta vẫn cần có thêm nhiều nhà văn viết bằng tiếng Việt. Cần lắm. Qua Có nỗi buồn gieo mầm nhân ái, từ sử dụng tiếng Việt đến nỗi lòng của người Việt xa xứ, Iris Lê đã khiến ta “cảm thấy như có những ngọn lửa nhỏ sưởi ấm lòng mình”, lẽ nào ta lại dửng dưng? Hãy nhận lấy. Tôi tin bạn sẽ hài lòng.
LÊ MINH QUỐC (9/8/2020)
Trích đoạn:
CHƯƠNG 1 - Vỡ trận
Mia cảm thấy trời đất như quay cuồng. Bọng đái cô căng đầy, đè vào thành bụng đau anh ách nhưng cơ thể bên trong lại đang kêu gào vì thiếu nước, khô héo như một cái cây mùa nắng hạn. Nhiều giờ đồng hồ đóng mình trong mớ đồ bảo hộ lỉnh kỉnh, dày như vải bố, hai bên gò má của cô hằn lên hai lằn của chiếc mặt nạ N95. Nhìn thoáng qua, trông như hai vết bớt kỳ dị bẩm sinh. Cách đeo mặt nạ đúng là không được để không khí thoát ra ngoài, cũng vì thế mà tạo nên những vết lằn chằng chịt trên gương mặt thanh tú ấy. Nếu ai đã từng sử dụng qua mặt nạ N95 một cách đúng chuẩn sẽ hiểu cảm giác khó thở và đau đớn, khi hai cạnh của chiếc mặt nạ buộc phải được kéo căng và siết chặt vào hai bên gò má. Chỉ cần đeo một vài phút, vùng da ấy sẽ đỏ rát, chứ đừng nói đến đeo trong nhiều giờ đồng hồ liên tục. Thời tiết của Úc đang vào thu, nhiệt độ trung bình là 15 độ C nhưng trên gương mặt Mia vẫn lấm tấm mồ hôi vì nóng.
Thật là kinh khủng khi phải tự ngửi hơi thở sặc mùi hành tỏi của chính mình trong một thời gian dài. Mia đã phải ăn qua loa một chiếc bánh burger của cửa hàng McDonald trước giờ vào ca. Các cửa hàng ăn nhanh luôn mọc rải rác trên đường đi, giá lại rẻ. Tuy nhiên ở thời điểm này, chỉ có một phần tư số cửa hàng mua vẫn còn hoạt động, nhưng cũng chỉ cho thực khách lái xe mang về chứ không được ăn tại chỗ.
Đôi khi Mia tự nhìn mình trong gương và giật mình. Mới có ba tháng mà mọi thứ đã thay đổi một cách chóng mặt như thế sao? Một Mia xinh đẹp, nổi tiếng là hoa khôi của Khoa Bệnh Truyền nhiễm của bệnh viện Westmead, bệnh viện lớn nhất nước Úc, giờ đây đã tàn tạ đến nỗi không còn có thể nhận ra. Gương mặt hơi vuông cá tính kết hợp độc đáo với đôi gò má đầy đặn của trẻ thơ, làn da căng mướt không tì vết và sắc da tươi tắn như búp hoa vừa uống những giọt sương mai, giờ đã được thay bằng một cái đầu lâu khô quắt, hai trũng má hõm sâu. Căng lên trên khung đầu lâu ấy là lớp da xỉn màu, tái nhợt, lấm tấm mụn vì cà phê và những đêm mất ngủ. Đó là chưa kể đến những vết lằn chằng chịt được tạo ra bởi sự ma sát giữa những chiếc nón, những chiếc kính bảo hộ và khẩu trang siết chặt ma sát với làn da mỏng manh.
….
Cô gái mạnh mẽ ấy gần đây đã khóc rất nhiều, khóc vì kiệt sức, khóc vì phẫn nộ với thời thế và cảm thấy bản thân mình lực bất tòng tâm. Việc phải tăng giờ làm, làm ca kéo dài 12 tiếng, liên tục phải đóng mình trong đồ bảo hộ kín mít từ đầu đến chân vừa nóng vừa khó thở khiến đội ngũ y tế phải chịu đựng một lượng áp lực kinh khủng trong mùa dịch. Chưa kể đến việc phải tiếp xúc gần như cả ngày với những người bệnh truyền nhiễm làm tăng thêm sức nặng của sự căng thẳng. Tập thể nhân viên y tế của Úc không chỉ hoang mang vì thực trạng nội tại mà còn bị tra tấn tinh thần bởi nỗi ám ảnh nước Úc rồi sẽ đi vào vết xe đổ của các cường quốc khác như Ý, Anh, Mỹ v.v...Song song với sự căng thẳng từ việc chiến đấu với dịch bệnh, COVID-19 đã kéo theo muôn vàn những nỗi lo toan khác, những nỗi lo toan rất đời thường…
Liam nhìn cây cầu. Trước mắt anh là hình ảnh Fiona tươi vui nhảy thiết hài, kéo anh nhảy chung và bắt anh hứa hằng năm sẽ cùng cô nhảy tại nơi này bởi như vậy sẽ “lãng mạn hơn cả Gerry và Holly”. Câu trả lời trở nên chơi vơi theo nhịp chân của Liam bước lên cầu:
Di đang xuống cầu để quay về điểm hẹn, ngang qua Liam lúc anh nói lời cuối. Hai ánh mắt vô tình chạm nhau, một sâu thẳm, một trong veo đều phảng phất nỗi buồn.
Hai chiếc xe trước sau cùng đưa du khách đến Glendalough – một thung lũng sông băng thuộc vườn quốc gia hạt Wicklow, nổi tiếng bởi thiên nhiên tươi đẹp và là vùng đất tu viện thời Trung cổ được thánh Kevin thành lập vào thế kỷ thứ 6. Đây được xem là một trong những tu viện Cơ đốc giáo đầu tiên của hòn đảo ngọc lục bảo này. Trải qua hàng trăm năm, chỉ còn nhà thờ đá St. Kevin với tòa tháp tròn nằm trong khu cổ mộ, tĩnh lặng giữa không gian yên bình. Di dạo quanh khu thánh tích rồi men theo đường mòn ra hồ. Nằm ở độ cao 130 mét so với mực nước biển và được bao quanh bởi những ngọn núi, hồ mang chút tịch mịch và bí hiểm với mặt nước phẳng lặng được phủ vây bởi những lớp sương mỏng mờ ảo.
Để du khách có hai giờ tự do khám phá, Liam leo lên ngọn đồi, lướt mắt nhìn cảnh vật xung quanh và hướng ra hồ Glendalough. Đôi mắt anh bị hút bởi dáng ngồi cô đơn của Di ở ven hồ. Từ ngày quen Fiona, trái tim anh chưa bao giờ lỗi nhịp, dù công việc khiến anh luôn tiếp xúc với nhiều nữ du khách xinh đẹp, lắm tiền và đa dạng tính cách từ khắp nơi trên thế giới. Vậy mà giờ đây, anh lại có chút lưu tâm đến một cô gái không nhìn rõ mặt. Liam tự cười mình, có lẽ là chút tò mò mang tính nghề nghiệp, khi thấy một du khách bỏ tiền đi du lịch nhưng lại có vẻ hờ hững với mọi thứ xung quanh. Kinh nghiệm cho biết phần lớn là do tình cảm gây ra. Chỉ có tình cảm mới khiến con người đôi khi từ bỏ mọi thứ, buông bỏ bản thân. Có kẻ sống theo kiểu phá phách, trụy lạc; có người cố tìm quên trong công việc; có kẻ tự gặm nhấm nỗi đau; có người mạnh mẽ đối diện, quyết tâm thay đổi để sống tốt hơn mỗi ngày. Dường như cô gái kia đang ở vùng giao thoa của đối tượng 3 và 4, cố vượt qua nhưng bị hồi ức kìm chế. Còn anh, anh đang ở đâu?
Di đứng dậy, quay người bước đi, bất ngờ thấy dáng Liam chênh vênh trên đồi. Vẻ lãng tử mang chút phong trần tạo chút ấn tượng với cô. “Nếu một ngày nào đó gặp người tài giỏi hơn, quyến rũ hơn Dương thì sao?”, đôi khi Dương hỏi cắc cớ vậy đó. Di mỉm cười: “Thì bỏ đi thôi!”. Và Di đi thật, để lại ánh mắt Liam đằng sau.
Nghe Bảo Tôi Là Con Gái Vua là bộ webtoon Hàn Quốc đình đám được Comicola mua bản quyền. Bộ truyện đứng thứ nhất trên bảng xếp hạng Tapas, đồng thời luôn nằm trong top các bộ webtoon ăn khách tại Trung, Hàn, Nhật hai năm gần đây. Với nội dung siêu hài hước cùng những tình huống dở khóc dở cười, truyện đã nhận được nhiều độc giả quan tâm, đón đọc. Comicola là đơn vị duy nhất tại Việt Nam nắm giữ bản quyền tác phẩm. Sắp tới, bộ truyện sẽ được xuất bản và đến gần hơn với độc giả.
Nghe Bảo Tôi Là Con Gái Vua nói về cô gái trẻ Kim Tú Vi đang tận hưởng cuộc sống hạnh phúc cùng người yêu, nữ chính bỗng rơi vào tình huống vô cùng oái ăm khi xuyên không trở thành một nàng công chúa. Những tưởng đây sẽ là một điều may mắn với cô khi được sống trong vương giả nhung lụa, chỉ tiếc cô đã xuyên đến một thế giới với tư tưởng trọng nam khinh nữ vô cùng kì quái. Liệu sự xuất hiện của cô công chúa nhỏ có thể thay đổi định kiến nặng nề và vận mệnh của chính minh?
TẢN BỘ TRONG VƯỜN ĐOẢN THI
Phan Thị Thu Hiền
Nếu so với sonnet, thể thơ ngắn nổi tiếng, quen thuộc nhất của văn học châu Âu (bài thơ trong hình thức cổ điển có 10 dòng với 140 âm tiết) thì các thể thơ ngắn nhất đồng thời nổi tiếng bậc nhất của văn học Đông Á nhỏ nhắn hơn nhiều.
Bên cạnh tuyệt cú (bài thơ 20 hoặc 28 âm tiết) vốn xuất phát từ Trung Hoa nhưng dần trở thành gần như một gia tài chung trong văn học chữ Hán của khu vực, được thi nhân cả ở Korea, Nhật Bản, Việt Nam thưởng thức và sáng tác thì mỗi nền văn học dân tộc lại có hình thức đoản thi độc đáo, trong ngôn ngữ, văn tự riêng của mình. Có thể kể sijocủa Korea (hình thức quy chuẩn chừng 45 âm tiết), lục bát của Việt Nam (bài thơ 2 câu chỉ gồm 14 âm tiết), haikucủa Nhật Bản (17 âm tiết).Tuyệt cú tương đương với thể rubai (bài thơ cũng 4 dòng) của Ba Tư (Tây Á). Lục bát hai câu thì gần gũi với hình thức bài thơ một sloka (2 dòng, tổng cộng 32 âm tiết) trong văn học Ấn Độ (Nam Á).
Tuy nhiên, có lẽ khắp thế giới không tìm được một khu vực nào khác phong nhiêu các đoản thi, say mê nồng nhiệt và sở trường đặc biệt về các thể thơ này như ở Đông Á.
Các nền văn học Đông Á đều khởi đầu bằng thơ ca. Song, những thể thơ ngắn tiêu biểu không tự nhiên có được ngay thuở ban sơ, mà thường xuất hiện khá muộn về sau.
Tuyệt cú hình thành khoảng thế kỷ VI; sijo, lục bát định hình như một thể thơ vào khoảng thế kỷ XIV; haiku được khai sinh như một hình thức độc lập vào giữa thế kỷ XVII.
Tất cả đều cho thấy con đường đến đoản thi là hành trình trưởng thành, thuần thục của mỗi nền văn học.
Tuy phần lớn các thể thơ ngắn Đông Á đều có nguồn gốc trực tiếp hoặc sâu xa từ bài ca (dân gian), nhưng quan hệ giữa “thi” và “ca” được tiếp nối ở sijo, lục bát lâu dài, chặt chẽ hơn so với tuyệt cú, haiku.
Có thể hình dung tuyệt cú của Trung Hoa như một thế giới tương hỗ chặt chẽ Âm-Dương, hài hòa, đối xứng; haiku của Nhật Bản xây dựng thế cân bằng lệch, cực Dương; trong khi lục bát của Việt Nam cực Âm, nhịp nhàng, uyển chuyển; sijo của Korea mềm mại, linh hoạt.
Như vậy, những bài thơ bốn dòng, ba dòng, hai dòng, hay một dòng của tuyệt cú, sijo, lục bát, haiku, nhìn trên bề mặt, có kết cấu hết sức đa dạng. Tuy nhiên, cấu trúc sâu tạo nghĩa của các thể thơ này lại đồng quy một cách lạ lùng. Cách này hay cách khác, các đoản thi thành công luôn có một bản lề khép lại tâm cảnh/ ý cảnh của phần đầu bài thơ và đột ngột xoay chuyển mở ra trong câu thơ cuối cùng/ ngữ đoạn cuối cùng một tâm cảnh/ ý cảnh khác, mới mẻ tinh khôi, dù cả hai vẫn không ngừng là một thế giới… Toàn bộ phần đầu bài thơ tích tụ, chất dồn năng lượng cho sự thăng hoa, bùng nổ ở câu thơ cuối cùng/ ngữ đoạn cuối cùng.
So sánh với thơ ngắn của các nền văn học khác như vậy, có thể nhận thấy đặc trưng của các đoản thi Đông Á trong sự nhuần nhị, tự nhiên dung nhập cảnh và tình, hòa quyện trữ tình và triết lý, hàm súc mà dư ba.
Tuyệt cú, sijo, lục bát, haiku cùng hàm súc, giàu sức gợi, nhưng thi pháp của mỗi thể thơ lại mang sắc thái khác nhau.
Tóm lại, tuyệt cú của Trung Hoa, haiku của Nhật Bản, sijo của Korea và lục bát của Việt Nam chia sẻ khá nhiều đặc điểm tương đồng có tính loại hình và có tính khu vực. Cả bốn thể thơ đều hàm súc, giàu sức khơi gợi. Cả bốn thể thơ, với những cách thức và mức độ khác nhau đều chịu ảnh hưởng của truyền thống văn hóa Á Đông (Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo...).
Bên cạnh những đặc điểm chung, tuyệt cú, haiku, sijo, lục bát, mỗi thể lại có những đặc trưng biểu hiện bản sắc dân tộc độc đáo. Sijo và lục bát có nhiều điểm gần gũi nhau hơn so với tuyệt cú và haiku. Trong khi tuyệt cú và haikucổ điển, hàn lâm, luật thi nghiêm ngặt thì sijovà lục bát tự nhiên, năng động hơn. Tuyệt cú và haikuchủ yếu là tiếng thơ vô ngã, lôi cuốn bằng sự sắc sảo, chiều sâu tôn giáo - triết học, đậm đà phong vị Thiền tông. Sijo và lục bát lại cất lên lời ca mang giọng điệu trữ tình, nồng nàn sắc thái cá nhân, chinh phục nhờ những vẻ đẹp biến ảo của tâm hồn.
Bộ sách tinh tuyển văn chương Đông Á đã xuất bản:
Những mái lều ẩn cư trong văn chương Đông Á (2013)
Những kỳ nữ trong thơ ca Đông Á (2014)
Huyền thoại lập quốc của các nước Đông Á (2014)
Thi tăng Đông Á (2017)
Chuyện tình ma nữ trong truyền kỳ Đông Á (2017)
Thượng Hải – Tokyo – Hà Nội – Seoul trong văn chương Đông Á đầu thế kỷ XX (2017)
Đoản thi Đông Á (2020)
Các trích đoạn:
Mai hoa tuyệt cú
梅花绝句
陆游
闻道梅花坼晓风,
雪堆遍满四山中。
何方可化身千亿,
一树梅花一放翁。
Phiên âm:
MAI HOA TUYỆT CÚ
Lục Du (1)
Văn đạo mai hoa sách hiểu phong,
Tuyết đôi biến mãn tứ sơn trung.
Hà phương khả hóa thân thiên ức,
Nhất thụ mai tiền nhất Phóng Ông.
Dịch thơ:
Thơ tuyệt cú về hoa mai
Nghe gió sớm về mai nở bông,
Như làn tuyết phủ khắp non trùng.
Cách chi thân hóa thành muôn ức,
Bên mỗi gốc mai một Phóng Ông.
1. Lục Du (1125 – 1210) tự là Vụ Quan, hiệu là Phóng Ông, quê ở Sơn Âm (nay thuộc tỉnh Chiết Giang). Xuất thân trong gia đình quan lại, sớm tiếp thu được truyền thống văn hóa tốt đẹp và hoài bão ý chí yêu nước. Ông từng thi đỗ tiến sĩ nhưng bị đánh trượt; sau đó ông tòng quân chỉ huy quân đội ở một số địa phương. Lục Du là nhà thơ yêu nước vĩ đại thời Nam Tống, văn võ kiêm toàn, luôn chủ trương chống quân Kim xâm lược.
Ông có tài cả về thơ, từ, tản văn, lại sở trường về sử học. Bình sinh ông sáng tác gần ba vạn bài thơ, nay còn lại hơn 9.000 bài. Thơ ông có nội dung phong phú, tính hiện thực cao và chứa chan tinh thần yêu nước. Phong cách thơ ông trầm hùng, hào phóng; ông sành tất cả các thể thơ, nhất là thất ngôn luật thi.
Tác phẩm có Kiếm Nam thi cảo, Vị Nam văn tập, Phóng Ông từ.
Tập sách là tập hợp những giấc mơ của con người trước số phận và cuộc sống. Có giấc mơ đẹp đẽ đầy hy vọng, có cả cơn ác mộng ám ảnh không thể quên. Những giấc mơ bắt đầu từ hiện thực (giấc mơ kiếm tiền, giấc mơ sống yên ổn, giấc mơ tha thứ cho nhau...) chuyển mình qua từng cảm xúc mơ hồ (giấc mơ về tổn thương quá khứ, giấc mơ về những ký ức đau buồn...), tiến đến những câu chuyện huyền ảo (mượn giấc mơ để thể hiện sự phản kháng thực tại). Mơ, mà mở mắt. Nó nửa thực, nửa ảo; khi bi kịch áp lên vai con người sức nặng. Từng câu chuyện là từng giấc mơ riêng, phản ánh những khát vọng và nỗi sợ. Nhưng suy cho cùng, đó vừa là điểm tựa, vừa là lối thoát. Vì sau cơn mơ, người ta sẽ phải tỉnh dậy.
Trích đoạn:
Dưới chân cầu nói dối
Thế giới của riêng cô có ngày bị xâm phạm bởi một người đàn ông. Kẻ lạ mặt đang thoải mái ngồi hút thuốc trên chiếc xe cần cẩu rỉ sét. Điếu thuốc tàn, anh thẳng tay quăng xuống. Cô hốt hoảng chạy lại, giơ gót giày cao gót định giẫm tắt. Gặp lá ướt, gót giày trượt đi, cô té xuống đất ê ẩm. Anh cười khùng khục, không có vẻ gì sẽ bước xuống đỡ cô dậy. Cô tự mình đứng lên, sau khi đã trút bực bội cho tàn thuốc tắt ngấm, chống nạnh quắc mắt nhìn kẻ xâm lấn không gian riêng của mình:
- Ê anh kia, vô chỗ của người ta rồi còn xả rác hả? Lỡ cháy thì sao?
- Ờ, xin lỗi. - Anh nhìn quanh, đúng là nhiều lá khô thật, một tàn thuốc có thể sẽ gây họa. Tuột khỏi xe cần cẩu, anh nổi hứng muốn trêu chọc cô gái trước mặt mình một chút. - Chỗ của cô? Cô mua nó rồi hả?
- Ờ thì chưa. - Cô sững ra, không ngờ anh hỏi câu này. Chắc hẳn đây là loại đàn ông giàu có đáng ghét, thích định giá sở hữu bằng tiền.
- Vậy là sắp mua? - Anh rút điếu thuốc, châm lửa rít khói.
- Không.
- Có ý định mua?
- Không luôn.
- Vậy lấy gì để nói chỗ này của cô hả cô nương lùn tè? - Anh ngửa cổ, mở miệng thả đám khói để chúng bay về trời, cố tình giữ một vẻ mặt đáng ghét.
- Thì tôi tìm ra nó đầu tiên.
- Cô nhún vai, lấy trong túi xách ra tấm bạt ni lông trải xuống đất. - Và tôi cao gần mét bảy nha. Nếu anh muốn, tôi sẽ chia sẻ chỗ này với anh.
Không cần cô mời, anh tự nhiên bước tới ngồi lên chỗ còn trống trên tấm bạt. Cô gái tiếp tục lôi ra một hộp nho khô, chai nước suối, vài ổ bánh mì ngọt. Mở nắp nghiêng hộp về phía anh, cô hất cằm, ăn cho vui.
- Không lên cơn với tôi nữa hả? - Anh bỏ một ít nho khô vào miệng, thay cho khói thuốc. Chúng ngọt tới mức va đập vào cổ họng, nhưng anh vẫn còn thấy sót chút đắng.
- Không. Hơi đâu giận người dưng khi tôi đã nổi điên cả ngày, và mỗi ngày với đủ loại người rồi. - Cô mở nắp chai nước, uống ừng ực không ngần ngại. - Ở đây, tôi muốn mình thoải mái. Và vì thoải mái, nên tôi ở đây.
Anh im lặng nhìn cô, thích thú trước sự kỳ quặc đang toát ra. Có thể vì chưa biết gì về nhau, cô tạo cho anh cảm giác dễ chịu.
- Cô ở đây làm gì?
- Tắm hoàng hôn. - Cô tấn công tới ổ bánh mì ngọt, đưa một nửa cho anh. - Ăn không? Ngon hơn thứ hôi rình anh đang ngậm đó.
Anh bật cười đón lấy, lẩm bẩm, gì mà tắm hoàng hôn, điên thiệt chứ. Nhưng nụ cười của anh xao động, bị kéo bung ra sắp đứt, khi cô quay sang hỏi:
- Anh là ai, làm gì, ở đâu tới đây?
- Tôi... - Anh cau mày, sự khó chịu dần hiện trên mặt. Anh không muốn người ta biết nhiều về mình, để từ đó đào sâu vào những thứ anh đang không muốn đối diện.
- Khờ ghê, đâu ai bắt anh nói thiệt. - Cô lấy bánh mì kẹp nho khô, bỏ vô miệng nhai nhồm nhoàm.
- Anh có thể nói dối, nếu muốn. Như tôi, một cô ca sĩ mới nổi đã chán với lịch diễn dày đặc và đám antifan khốn nạn nên trốn ra đây.
Trong thế kỷ 21, công nghệ lao nhanh về phía trước, nhân loại sáng tạo ngày càng nhiều phát minh mới để cải thiện cuộc sống, nhưng điều này không có nghĩa con người trở nên thông minh hơn và có trách nhiệm hơn. Trong “Tin nóng", Dmitry Glukhovsky đã đẩy tình huống đến mức phi lý, khéo léo che giấu những chủ đề đau đớn dưới phép ẩn dụ về sự xuất hiện của một nền văn minh khác...
Anna Starobinets viết về những thứ hoàn toàn khác nhau, chạm đến nhiều vấn đề: gia đình, tôn giáo, du hành về quá khứ, người ngoài hành tinh, việc nuôi dạy trẻ em và sự du cư của linh hồn. Nhưng tất cả những vấn đề này không nằm trong các cốt truyện thông thường, mà là theo cách riêng của cô, độc đáo, hoàn toàn không giống bất cứ thứ gì. Truyện ngắn "Người thực" nằm trong tuyển tập Tuổi giao thời, cuốn sách chứa đựng tất cả những gì cần có của văn chương kinh dị thực sự - những chi tiết đóng băng tâm hồn, đen tối trong sự mù mờ đa nghĩa của nó, những trò chơi và thủ thuật tâm lý, cái chết, huyền thoại...
Truyện ngắn "Rừng" của Zakhar Prilepin được giới thiệu trong tuyển tập này là một tự truyện, chất đầy những gam màu cảm xúc và trải nghiệm của một cậu bé nhớ về cha mình, với tình yêu thương vô bờ, qua lăng kính của chuyến phiêu lưu trên một dòng sông giữa khu rừng đáng kinh ngạc và sợ hãi... Zakhar Prilepin có thể rất khác biệt, một số nhà phê bình chỉ ra phong cách nam tính mạnh mẽ, ngòi bút nam tính mạnh mẽ của ông, trong khi những người khác gọi tác phẩm của ông là văn xuôi dịu dàng nhất, tinh tế nhất, tao nhã nhất...
Trong "Vết mực của Nabokov", chỉ trên vài trang giấy, trước mắt chúng ta thoáng qua một cuộc đời, thậm chí vài cuộc đời. Tiếp tục các chủ đề truyền thống của văn học Nga, với sự chú trọng đến các khía cạnh đạo đức của thế giới quan, Mikhail Shishkin cho thấy hai nhận thức khác nhau với những giá trị khác nhau và sự chọn lựa con đường của mỗi người. Giấy quỳ trong câu chuyện là thái độ đối với Nabokov, người mà hình ảnh chạy xuyên suốt toàn bộ cốt truyện, làm cho tác phẩm trở nên trọn vẹn.
Ở vùng đất Thục Trung thời Hậu Chiêu có một dòng sông Tẩy Mặc nước đen cuồn cuộn, nơi đó có Tứ Thập Bát Trại với một lá cờ Phỉ sừng sững suốt hai mươi năm. Tương truyền rằng, rất nhiều năm trước đây, giang hồ loạn lạc, khi đó Nam đao đại hiệp Lý Trừng “phụng chỉ làm phỉ”, từ đấy về sau xuất hiện Tứ Thập Bát Trại danh chấn giang hồ. Sau khi Lý Trừng qua đời, danh môn giang hồ cũng lần lượt suy bại. Nữ nhi của Lý Trừng là Lý Cẩn Dung đã tiếp quản chức vụ đại đương gia, thành hôn với Chu Dĩ Đường và sinh con gái đặt tên là Chu Phỉ. Chu Phỉ được sinh ra trong thời loạn thế, giang sơn chia cắt đôi bờ Nam Bắc, những huy hoàng và nhiệt huyết sục sôi của thế hệ trước đã dần mai một sau khi Nam đao Lý Trừng qua đời. Năm mười ba tuổi, Chu Phỉ định bỏ nhà, suýt chút nữa mất mạng trên dòng sông Tẩy Mặc, được Nam vương Tạ Doãn cứu sống, kết nên mối lương duyên định mệnh. Ba năm sau, hai thiếu niên tài hoa xuất chúng này lại một lần nữa tương ngộ tại Hoắc gia bảo, vén mở ra những bí mật của các cao thủ tông sư đã ẩn dật giang hồ từ nhiều năm trước. Đồng thời còn bị Bắc Đẩu thất tinh, thuộc hạ của Tào tặc truy sát, họ bị cuốn vào một âm mưu ngấm ngầm thâm độc. Chu Phỉ dựa vào “Phá tuyết đao” danh chấn thiên hạ, với tính tình cương trực ngay thẳng, đã tô thêm một nét màu đậm đà đẹp đẽ trong bức tranh giang hồ đầy màu sắc.
Cuộc đời của Chu Phỉ sẽ được viết tiếp như thế nào trong chốn giang hồ nhiều sự nhiễu đương? Mời các bạn độc giả đón bộ truyện Hữu Phỉ được phát hành độc quyền bởi Saigon Books!
Bạn có biết “tất cả trẻ con đều là người ngoại quốc” khả năng học ngoại ngữ của trẻ sẽ trở nên dễ dàng hơn nếu được tiếp xúc từ nhỏ.
Bộ sách song ngữ: Bé học lễ giáo - Tuyển tập những câu chuyện lễ giáo dành cho trẻ từ 6 đến 11 tuổi - là một trong những nỗ lực của người biên soạn nhằm giúp các em có thêm kênh tương tác với Anh ngữ, một cầu nối cần thiết trong việc phát triển bản thân vững tin bước vào thế giới.
Bộ sách Tuyển tập những câu chuyện lễ giáo dành cho trẻ từ 6 đến 11 tuổi - gồm mười quyển, tương ứng với mười đức tính cơ bản mà trẻ cần có - Kiên trì, Biết ơn, Lịch sự và Tôn trọng, Yêu thương, Vị tha và Trắc ẩn, Tinh thần trách nhiệm, Khiêm nhường, Tử tế, Trung thực, Đáng tin cậy.
Bằng ngôn ngữ trẻ em trong sáng, giản dị kết hợp những hình ảnh minh họa đẹp mắt, mỗi cuốn sách trong Tuyển tập những câu chuyện lễ giáo dành cho trẻ từ 6 đến 11 tuổi đều là những bài học nhỏ, giúp các em biết cách ứng dụng vào tình huống thực tế ngoài cuộc sống và rèn luyện đức tính tốt: kiên trì, biết ơn, tinh thần trách nhiệm, tử tế, trung thực…
Từng chủ đề trong bộ sách sẽ cung cấp nhiều từ vựng căn bản dành cho trẻ em. Mỗi tập chứa gần 100 từ vựng tiếng Anh thông dụng giúp các em trao dồi và nâng cao khả năng học ngoại ngữ.
Bạn Rùa kiên trì – kiên trì nghĩa là mình vẫn tiếp tục cố gắng, dù mọi thứ thật khó khăn.
Bạn Mèo biết ơn – biết ơn nghĩa là mình cảm ơn vì những gì mình có và mình tìm cách để thể hiện lòng biết ơn đó.
Bạn Hưu cao cổ Tinh thần Trách nhiệm - tinh thần trách nhiệm nghĩa là mình làm những việc cần được làm.
Bạn Khỉ Tử tế - Tử tế nghĩa là mình vui vẻ sẻ chia hoặc cho người khác những gì mình có.
Bạn Gấu Trung thực – Trung thực nghĩa là luôn luôn nói sự thật và chỉ nói sự thật mà thôi…
Bước vào thế giới của những nhân vật này, các em hiểu rằng những việc mình làm, những điều mình nói, những lời hứa, những cách cư xử…của bạn Rùa, bạn Mèo, bạn Hưu, bạn Khỉ, bạn Gấu đều có lý do “rất đúng” để học và làm theo.
Nếu bạn đang tìm một món quà dành tặng các em hãy nghĩ đến bộ sách song ngữ: Bé học lễ giáo và Tuyển tập những câu chuyện lễ giáo dành cho trẻ từ 6 đến 11 tuổi. Sách luôn là món quà tuyệt vời nhất, giúp phụ huynh ươm mầm nuôi dưỡng những hạt giống tốt trong tâm hồn các em.
Bạn có biết “tất cả trẻ con đều là người ngoại quốc” khả năng học ngoại ngữ của trẻ sẽ trở nên dễ dàng hơn nếu được tiếp xúc từ nhỏ.
Bộ sách song ngữ: Bé học lễ giáo - Tuyển tập những câu chuyện lễ giáo dành cho trẻ từ 6 đến 11 tuổi - là một trong những nỗ lực của người biên soạn nhằm giúp các em có thêm kênh tương tác với Anh ngữ, một cầu nối cần thiết trong việc phát triển bản thân vững tin bước vào thế giới.
Bộ sách Tuyển tập những câu chuyện lễ giáo dành cho trẻ từ 6 đến 11 tuổi - gồm mười quyển, tương ứng với mười đức tính cơ bản mà trẻ cần có - Kiên trì, Biết ơn, Lịch sự và Tôn trọng, Yêu thương, Vị tha và Trắc ẩn, Tinh thần trách nhiệm, Khiêm nhường, Tử tế, Trung thực, Đáng tin cậy.
Bằng ngôn ngữ trẻ em trong sáng, giản dị kết hợp những hình ảnh minh họa đẹp mắt, mỗi cuốn sách trong Tuyển tập những câu chuyện lễ giáo dành cho trẻ từ 6 đến 11 tuổi đều là những bài học nhỏ, giúp các em biết cách ứng dụng vào tình huống thực tế ngoài cuộc sống và rèn luyện đức tính tốt: kiên trì, biết ơn, tinh thần trách nhiệm, tử tế, trung thực…
Từng chủ đề trong bộ sách sẽ cung cấp nhiều từ vựng căn bản dành cho trẻ em. Mỗi tập chứa gần 100 từ vựng tiếng Anh thông dụng giúp các em trao dồi và nâng cao khả năng học ngoại ngữ.
Bạn Rùa kiên trì – kiên trì nghĩa là mình vẫn tiếp tục cố gắng, dù mọi thứ thật khó khăn.
Bạn Mèo biết ơn – biết ơn nghĩa là mình cảm ơn vì những gì mình có và mình tìm cách để thể hiện lòng biết ơn đó.
Bạn Hưu cao cổ Tinh thần Trách nhiệm - tinh thần trách nhiệm nghĩa là mình làm những việc cần được làm.
Bạn Khỉ Tử tế - Tử tế nghĩa là mình vui vẻ sẻ chia hoặc cho người khác những gì mình có.
Bạn Gấu Trung thực – Trung thực nghĩa là luôn luôn nói sự thật và chỉ nói sự thật mà thôi…
Bước vào thế giới của những nhân vật này, các em hiểu rằng những việc mình làm, những điều mình nói, những lời hứa, những cách cư xử…của bạn Rùa, bạn Mèo, bạn Hưu, bạn Khỉ, bạn Gấu đều có lý do “rất đúng” để học và làm theo.
Nếu bạn đang tìm một món quà dành tặng các em hãy nghĩ đến bộ sách song ngữ: Bé học lễ giáo và Tuyển tập những câu chuyện lễ giáo dành cho trẻ từ 6 đến 11 tuổi. Sách luôn là món quà tuyệt vời nhất, giúp phụ huynh ươm mầm nuôi dưỡng những hạt giống tốt trong tâm hồn các em.
Cũng là những câu chuyện về Sài Gòn với phong cách điềm đạm, nhẹ nhàng, cẩn trọng như hai tập sách trước, nhưng với mỗi câu chuyện trong Sài Gòn - Chuyện Đời Của Phố 3, tác giả Phạm Công Luận vẫn mang lại sự mới mẻ và cảm giác hứng thú riêng cho người đọc bằng những tư liệu quý, sinh động, cách thể hiện mềm mại, có tính hệ thống, suốt hơn 330 trang sách.
Sài Gòn qua góc nhìn của người ở xa:
Mạch ngầm xuyên suốt mà người đọc dễ dàng nhận ra thông qua Sài Gòn - Chuyện Đời Của Phố 3 vẫn là một Sài Gòn phồn hoa, rộng mở đón nhận thành phần, không phân biệt xuất thân, gốc gác. Những đặc điểm đó khúc xạ qua lăng kínhvà sự nhìn nhận riêng của những nhân chứng từng là người ở các tỉnh lân cận đến thành phố này. Theo tác giả: “Những người di dân đến Sài Gòn luôn phát hiện những điều thú vị mà những người sống ở đô thị này từ nhỏ đến lớn cũng không nhận ra được”.
Đó là một Sài Gòn sang trọng, hoa lệ trong lời kể của chàng thanh niên Lý Thân – cậu ấm trong một gia đình ở Lái Thiêu (Bình Dương), thông qua chuyến lang thang khám phá của mình trên đường phố Sài Gòn trước 1954. Sài Gòn trong mắt người miền Trung cách nay hơn bảy mươi năm trước là: “... nhà cửa phố xá đông nghẹt, có nhà lầu cao ba tầng, có đường đi rộng rãi ba thước, trên bộ xe hơi chạy boong boong, dưới nước tàu thủy chạy vù vù, tối về đèn điện thắp sáng choang như ban ngày, ông Tây bà đầm ôm nhau đăng-xê coi vui mắt quá chừng! Thật là văn minh quá sức tưởng tượng của dân An Nam ta...”. Có thể đó là những ngộ nhận từ sự thật được tô vẽ thêm, nhưng qua những trang sách, Sài Gòn còn là nơi những người nghèo chí thú làm ăn và giỏi tích cóp như “chú Chệc bán đậu phộng rang”, “cánh xe ôm uống cà phê vợt đọc nhật trình” hay cư dân góc xóm Đa Kao… Không giàu có nhưng có thể tồn tại an nhiên và phong lưu, giữ bản sắc, nguồn gốc của mình. Ngay cả ở người giàu sụ, tiêu tiền như nước cũng có tác phong giản dị đến bất ngờ như trong bài “Người trong này họ như thế”. Sài Gòn qua câu chuyện của người con dâu trong một gia đình cư dân lâu đời ở Bà Chiểu chuẩn bị đón Tết tái hiện đời sống người Sài Gòn – Gia Định hồn hậu, nhân ái, trọng nghĩa. Sài Gòn trong sinh hoạt những ngày trước Tết của gia đình gốc người Hà Nội đến sống ở cổng xe lửa số 7,quận Phú Nhuận với sự tinh tế, nhẹ nhàng, thoảng hương hoa thủy tiên trong nỗi nhớ quê xưa rưng rưng ký ức. Góc nhìn của họa sĩ ký họa kiêm phóng viên Mỹ Dick Adair về những bức tranh ghi chép mọi mặt đời sống nơi đây, ghi nhận tinh tế đến chi tiết người Sài Gòn “giặt đồ, nghe radio và mùi nước mắm đang xào nấu trên bếp”, trong khi bên kia sông máy bay đang nã đạn và kết luận rằng:“sự hòa nhập vào đời sống Sài Gòn mới là câu chuyện thú vị hơn mọi kế hoạch đã trù tính”.
Những gì làm nên “chất Sài Gòn”?
Người thời nay nghe mỹ từ “Hòn ngọc Viễn Đông”, nhưng mấy người hiểu được nguyên nhân cũng như lý giải vì sao có tên gọi đó? Một điều thú vị của Sài Gòn - Chuyện Đời Của Phố 3 có những tư liệu (vô tình hay hữu ý), dần hé lộ và cắt nghĩa cho quá khứ lung linh của thành phố này. Nó xuất phát từ ý chí của người tha hương đến Sài Gòn đến lập nghiệp, như cách chủ tiệm may đồ đầm Kim Sơn ở đường Amiral Dupré ở trung tâm thành phố tổ chức tiệm may có bài bản khiến khách nước ngoài và giới nghệ sĩ luôn hài lòng. Bà Trùng Quang – người phụ nữ Sài Gòn gốc Bắc tài hoa, ham học hỏi tìm cách sang Nhật du học và hình thành doanh nghiệp làm sản phẩm “Búp bê văn hóa” tinh sảo, mang bản sắc Việt mà đến bây giờ chưa ai khôi phục được. Ông Nguyễn Gia Tốn, với trăn trở cải tiến kỹ thuật, kết nối hai chiếc xe máy hiệu Gilera thành chiếc xe bốn bánh giá rẻ. Đó là câu chuyện của nhà trí thức cách mạng Nguyễn An Ninh, không ngại bước ra lề đường phố chợ với lời rao trào lộng để thu hút khách hàng mua dầu cù là. Là sự ra đời của chiếc xe ôm Lambretta đầu tiên, theo tinh thần “cái khó ló cái khôn”. Đó là cách người Sài Gòn tâm huyết cho giáo dục thế hệ trẻ qua nhiều tủ sách lành mạnh, mà đặc biệt là tủ sách Tuổi Hoa dồn cả tâm huyết của văn nhân, trí thức, trở thành một hiện tượng của xuất bản. Đó là cách mà Giáo sư Lê Văn Khoa xây dựng chương trình truyền hình giáo dục hiện đại và đầy cuốn hútmang tên “Thế giới của trẻ em” cách nay nửa thế kỷ, chủ động hướng đến trẻ em không có cơ hội đi học do cái nghèo và chiến sự. Đó là cách tiếp cận, nâng cao kỹ thuật và chất lượng phục vụ của phi cảng Tân Sơn Nhất thuở ban đầu.Sài Gòn cũng là môi trường cho sáng tạo, chiêu hiền đãi sĩ với quán cơm thiện nguyện kiêm phòng trà Anh Vũ, hay Hội họa sĩ Trẻ.Nơi đó, hội tụ những tinh hoa, là cảm hứng sáng tác, nâng đỡ ý tưởng mới của những người trẻ.
Trong ánh lung linh của “Hòn Ngọc Viễn Đông”, khí chất của người Sài Gòn làm nền. Đó là một kết cục đáng buồn đầy tự trọng của chị giúp việc nhà cho ông chủ người Pháp, chọn cách cuối cùng là tự vẫn để chứng minh sự trong sạch cho mình trước nghi án trộm tiền của chủ. Là lá đơn của danh thủ 28 tuổi – Phạm Văn Lắm, dù đang đỉnh cao phong độ nhưng vẫn tự trọng nhường đàn em cơ hội khoác áo đội tuyển khi nhận thấy đội tuyển cần trẻ hóa. Là Giáo sư Lê Văn Khoa, sau những cống hiến cho giáo dục ở Sài Gòn, với tài năng và tư chất sẵn có, đặt chân đến Mỹ đã có những cống hiến tầm thế giới, làm rạng danh người Việt trong nhiều lĩnh vực như nhiếp ảnh, âm nhạc… Ông không chấp nhận cúi đầu xin tiền bố thí từ chính phủ Mỹ cho cộng đồng Việt vì cho rằng: “người Việt có khả năng lớn nhưng cần được giúp đỡ để đóng góp cho xã hội” thay vì chấp nhận đánh giá: “người Việt không biết gì hết và nghèo đói nên cần hướng dẫn xin trợ cấp”. Người Sài Gòn ý thức nâng tầm hàng Việt với nhà hàng Việt cao cấp đầu tiên để đón du khách, cho ra đời Trung tâm bách hóa tổng hợp “Saigon Departo” hiện đại không thua kém một Trung tâm thương mại hiện đại ngày nay...
Những câu chuyện trong Sài Gòn - Chuyện Đời Của Phố 3, nói như cách của tác giả Phạm Công Luận là “những câu chuyện “trên bờ” của dòng lịch sử”, nhưng chúng giúp cho người đọc hình dung rõ và sinh động hơn một dòng chảy lịch sử một Sài Gòn đã trôi qua. Ký ức đô thị này may mắn được truyền giữ theo cách riêng cùng với sự ra đời của cuốn sách này. Nếu đô thị không có ký ức, theo tác giả “cũng như một con người không nhớ gì về nơi mình sinh ra, lớn lên và cách mình trưởng thành ra sao. Nếu vậy, sẽ không biết cách đánh giá đúng các giá trị để chọn lọc, giữ gìn và truyền lưu”.
Mâu Tử: Lý Hoặc Luận - Tiến sĩ Dương Ngọc Dũng (nghiên cứu và phiên dịch)
Mâu Tử (chữ Hán: 牟子) tên thật là Mâu Bác (牟博). Theo nhiều nhà nghiên cứu, thì ông là một trong số ít người đầu tiên ở nước ngoài đến Giao Châu (vùng đất miền Bắc Việt Nam ngày nay) tu học và khai truyền đạo Phật tại đây.
Trước tác nổi tiếng của Mâu Tử là cuốn Lý Hoặc Luận, viết bằng chữ Hán. Sách gồm 37 câu hỏi đáp giữa tác giả và những người theo Đạo Nho (chủ yếu) và Đạo Lão (số câu ít hơn, chỉ từ câu 29 trở đi).
"Tại Việt Nam người đầu tiên dịch trọn vẹn tác phẩm này là Lê Mạnh Thát. Là người tiên phong, ông khó tránh những sơ suất trong phiên dịch mà chúng tôi sẽ chỉ ra trong bản dịch này. Tại phương Tây, Paul Pelliot là người đầu tiên dịch trọn vẹn Lý hoặc luận sang tiếng Pháp, cũng như John Keenan dịch toàn bộ Lý hoặc luận sang tiếng Anh. Chúng tôi tham khảo một số bản dịch sang Trung văn (có sẵn trên mạng) nhưng hầu hết đều sai sót rất nhiều và không hề giải thích hay chú thích lý do tại sao lại dịch như vậy. Bản thân Mâu tử là người dùng nhiều từ cổ, cộng thêm hiện tượng sao chép nhiều lần, điều này gây khó khăn cho người dịch không ít, mặc dù ý nghĩa thì rất rõ ràng".
"Quan điểm của chúng tôi rất đơn giản và không "treo" vào quá nhiều sự kiện đòi hỏi được kiểm chứng. Nếu chấp nhận thời điểm sáng tác của Lý hoặc luận khoảng thế kỷ thứ 5 thì chẳng cần phải gắn nó với một truyền thống Phật giáo (như Pelliot và Lê Mạnh Thát) hay với một cuốn kinh (như Maspéro) vì vào thế kỷ thứ 5 tri thức Phật giáo chẳng còn xa lạ gì với Trung Quốc và mọi chi tiết liên quan đến Phật giáo trong tác phẩm Lý hoặc luận đòi hỏi phải được giải thích trên cơ sở phương pháp luận thông diễn tư tưởng Phật giáo của thời kỳ này, tức phương pháp "cách nghĩa" 格 義 mà Đạo An (314-385) và Huệ Viễn (334-416) là hai đại biểu nổi tiếng nhất". Đạo An là tăng sĩ Trung Quốc đầu tiên dùng "cách nghĩa" để giải thích tư tưởng Phật giáo. Huệ Viễn là người chủ trương "thần bất diệt luận" mà Mâu tử lập lại. Đây chính là phương pháp thuyên giải tư tưởng Phật Giáo của chính Mâu tử: dùng Nho giáo và Đạo giáo để giải thích Phật Giáo. Chúng tôi ủng hộ quan điểm cho rằng Lý hoặc luận ra đời vào thời gian này (cuối thế kỷ thứ 4 và đầu thế kỷ thứ 5)".
Thông Tin TS. Dương ngọc Dũng
TS. Dương ngọc Dũng sinh năm 1956, hiện là giảng viên khoa Quan hệ Quốc tế, trường Đại học KHoa học Xã hội và Nhân văn - TP.HCM.
Ông tốt nghiệp cử nhân Anh văn năm 1980, tốt nghiệp đại học Canberra (Úc) năm 1989, chuyên ngành giảng dạy tiếng Anh (Graduate Diploma). Tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Đông Á học tại Đại học Harvard (Mỹ) năm 1995, tốt nghiệp Tiến sĩ ngành Tôn giáo học tại Đại học Boston (Mỹ) năm 2001, tốt nghiệp MBA của United Business Institute (Bỉ) năm 2007.
Ngoài ra, ông từng giữ những vị trí quản lý cao cấp, đào tạo và tư vấn cho những tổ chức lớn như Samsung, LG Vina, Tổng lãnh sự Mỹ, Úc, New Zealand, Bộ Kế hoạch & Đầu Tư, Bộ Tài chánh, Đài truyền hình Việt Nam, Tổng lãnh sự Singapore.
Vào năm 2016, TS. Dương Ngọc Dũng đã hướng dẫn Tổng thống Hoa Kỳ - Barack Obama thăm chùa Ngọc Hoàng.
Các tác phẩm đã xuất bản:
Kinh dịch và cấu hình tư tưởng Trung Quốc (NXB Khoa học Xã hội, 1999)
Triết giáo Đông Phương (NXB Đại học Quốc gia TP.HCM, 2003)
Lịch sử văn minh và các triều đại Trung Quốc (NXB Tổng hợp TP.HCM, 2004)
Bút kiếm Kim Dung (NXB Văn học, 2005)
Đường vào triết học (NXB Tổng hợp TP.HCM, 2006)
Tôn giáo nhìn từ viễn cảnh xã hội học (NXB Hồng Đức, 2016)
Loạn 12 Sứ Quân - Tập 3: Hoa Lư Anh Hùng Tụ Nghĩa + Tập 4: Khói Lửa Kinh Kỳ (1 Cuốn)
Theo chính sử: Sau khi Ngô Quyền mất (năm 944), Dương Tam Kha cướp ngôi vua của cháu gọi bằng cậu ruột là Ngô Xương Ngập. Trong triều xảy ra nhiều biến loạn, xung đột, tranh chấp làm cho chính quyền Trung ương suy yếu. Lợi dụng tình trạng đó, các thế lực phong kiến nổi dậy mỗi người hùng cứ một phương tranh chấp đánh phá nhau quyết liệt nhất là từ năm 965 khi chính quyền Trung ương tan rã. Đó là loạn mười hai sứ quân.
Mười hai sứ quân đó là:
Kiều Công Hãn chiếm giữ Phong Châu (Bạch Hạc, Vĩnh Phú)
Kiều Thuận chiếm giữ Hồi Hồ (Cẩm Khê, Vĩnh Phú)
Ngô Nhật Khánh chiếm giữ Đường Lâm (Ba Vì, Hà Tây)
Nguyễn Khoan chiếm giữ Tam Đái (Yên Lạc, Vĩnh Phú)
Đỗ Cảnh Thạc chiếm giữ Đỗ Đặng Giang (Thanh Oai, Hà Tây)
Lý Khuê chiếm giữ Siêu Loại (Thuận Thành, Hà Bắc)
Nguyễn Thủ Tiệp chiếm giữ Tiên Du (Tiên Sơn, Hà Bắc)
Lã Đường chiếm giữ Tô Giang (Văn Lâm, Hải Hưng)
Nguyễn Siêu chiếm giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Nội)
Phạm Bạch Hổ chiếm giữ Đăng Châu (Bàn Động, Hải Hưng)
Trần Lãm chiếm giữ Bố Hải Khẩu (Vũ Tiên, Thái Bình)
Vua Ngô là Ngô Xương Xí cũng rút về chiếm giữ Bình Kiều (Triệu Sơn, Thanh Hóa).
Lãnh địa của mỗi sứ quân bằng khoảng một vài huyện ngày nay, các sứ quân xây thành đắp lũy thôn tính lẫn nhau gây ra biết bao đau khổ cho nhân dân, đi ngược lại nguyện vọng hòa bình thống nhất của dân tộc, nền độc lập vừa mới giành được đứng trước nguy cơ hiểm nghèo. Do đó, yêu cầu sống còn của cả dân tộc là phải giữ vững khối đoàn kết toàn dân, đòi hỏi phải chấm dứt cuộc nổi loạn của mười hai sứ quân, khôi phục quốc gia thống nhất. Người anh hùng dân tộc giương cao ngọn cờ thống nhất quốc gia và hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng trước lịch sử là Đinh Bộ Lĩnh.
Đinh Bộ Lĩnh người làng Hoa Lư, là con người thông minh cương nghị có chí lớn, lúc đầu ông liên kết và đứng dưới cờ của sứ quân Trần Lãm. Trần Lãm chết, ông trở thành người cầm đầu một lực lượng vũ trang hùng mạnh, lần lượt đánh bại cái sứ quân khác. Đến năm 967, Loạn mười hai sứ quân được dập tắt, đất nước được thống nhất. Đây là thắng lợi của xu hướng thống nhất quốc gia, thắng lợi của tinh thần dân tộc và ý chí độc lập mạnh mẽ của nhân dân.
Tác giả Nguyễn Đình Tư rất tâm huyết và ấp ủ đề tài này từ lâu nên đã bỏ ra nhiều công sức khắc phục nhiều khó khăn để thực hiện hoài bão của mình. Nhưng theo tác giả, đề tài này nằm trong giai đoạn khuyết sử. Chính sử chỉ ghi lại các điểm chính còn chi tiết thì sơ sài.Nhiều câu hỏi đặt ra cho tác giả, tác giả đã vận dụng mọi khả năng có thể có được hầu góp phần giải đáp một số câu hỏi có liên quan đến giai đoạn Loạn mười hai sứ quân.
Loạn mười hai sứ quân xảy ra cách đây hơn một nghìn năm nên việc tái tạo hiện thực bối cảnh lịch sử qua trang viết sao cho chuẩn xác phù hợp, kể cả việc sử dụng ngôn từ là rất khó khăn, do đó không tránh khỏi hạn chế ở mặt này, mặt kia. Nhà xuất bản và tác giả mong đươc sự lượng thứ và góp ý của rộng rãi bạn đọc.
Tại Kho Sách, chúng tôi tạo ra một không gian dành riêng cho những đam mê đọc sách, từ những người đam mê văn học đến những người muốn khám phá thế giới qua trang sách.