1. Sách
  2. ///

Tác Giả Nguyễn Đình Tư

Tổng hợp sách của tác giả Nguyễn Đình Tư tại KhoSach.com.vn
bộ gia định - sài gòn - thành phố hồ chí minh: dặm dài lịch sử (1698-2020) - tập 2: 1945-2020 - bìa cứng (tái bản 2023)

Gia Định - Sài Gòn - Thành Phố Hồ Chí Minh: Dặm Dài Lịch Sử (1698-2020) -Tập 2: 1945-2020 - Bìa Cứng

"Lâu nay đã có nhiều người viết về thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn, Thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng mỗi người chỉ viết về một vấn đề, một mảng của Thành phố, chưa có tác phẩm nào viết bao quát toàn diện các khía cạnh, các lĩnh vực hoạt động của Thành phố. Ngay như bộ sách Địa chỉ văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh cũng chỉ nói một cách đại cương về lĩnh vực lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, tư tưởng, tôn giáo, mà không nói đến các lĩnh vực khác. Nay với tác phẩm này, tôi muốn cung cấp cho độc giả một cái nhìn bao quát, toàn diện, cụ thể các giai đoạn lịch sử, từ năm 1698 đến năm 2020, các chế độ chính trị, các lĩnh vực hoạt động về hành chính, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế, tôn giao fin ngưỡng, thể dục thể thao, v.v... của từng thời kỳ. Tóm lại tác phẩm này vi như một tập cẩm nang mà mọi cơ quan, can bộ, công chức, mọi gia đình trong Thành phố nên có để khi muốn fim kiếm một vấn đề gì liên quan đến Thành phố, chỉ việc mở sách ra là được thỏa mãn ngay, khỏi phải đi tìm đâu xa".

-Trích Lời nói đầu-

bộ gia định - sài gòn - thành phố hồ chí minh: dặm dài lịch sử (1698-2020) - tập 1: 1698-1945 - bìa cứng (tái bản 2023)

Gia Định - Sài Gòn - Thành Phố Hồ Chí Minh: Dặm Dài Lịch Sử (1698-2020) - Tập 1: 1698-1945 - Bìa Cứng

"Lâu nay đã có nhiều người viết về thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn, Thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng mỗi người chỉ viết về một vấn đề, một mảng của Thành phố, chưa có tác phẩm nào viết bao quát toàn diện các khía cạnh, các lĩnh vực hoạt động của Thành phố. Ngay như bộ sách Địa chỉ văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh cũng chỉ nói một cách đại cương về lĩnh vực lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, tư tưởng, tôn giáo, mà không nói đến các lĩnh vực khác. Nay với tác phẩm này, tôi muốn cung cấp cho độc giả một cái nhìn bao quát, toàn diện, cụ thể các giai đoạn lịch sử, từ năm 1698 đến năm 2020, các chế độ chính trị, các lĩnh vực hoạt động về hành chính, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế, tôn giao fin ngưỡng, thể dục thể thao, v.v... của từng thời kỳ. Tóm lại tác phẩm này vi như một tập cẩm nang mà mọi cơ quan, can bộ, công chức, mọi gia đình trong Thành phố nên có để khi muốn fim kiếm một vấn đề gì liên quan đến Thành phố, chỉ việc mở sách ra là được thỏa mãn ngay, khỏi phải đi tìm đâu xa".

- Trích Lời nói đầu

dì ghẻ, con chồng

Dì Ghẻ, Con Chồng

Được đông đảo độc giả, giới nghiên cứu khoa học xã hội biết đến là nhà nghiên cứu lịch sử, địa chí, nhưng xuất phát điểm của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư, lại là những truyện dài dành cho thiếu nhi. Khởi sự cho nghiệp viết lách ấy, phải quay về hơn 80 năm trước khi năm 1943, tác phẩm đầu tiên truyện dài mang tên “Nguyễn Xí” đăng trên báo Truyền bá số 85, ra ngày 10/6/1943 tại Hà Nội, viết về cụ tổ dòng họ. Lúc đó, chàng trai Nguyễn Đình Tư ở tuổi 23.

Báo Truyền bá khi ấy, có những cây bút đã thành danh, tên tuổi như Nguyễn Công Hoan, Lê Văn Trương, Thâm Tâm… Đây cũng là những tên tuổi bảo chứng cho Nhà xuất bản Tân Dân, đơn vị in ấn, phát hành loại báo in dạng sách nhỏ. Thế mà, chàng trai Nguyễn Đình Tư từ tỉnh lẻ Trung Kỳ đã "chen chân" được lên báo Truyền bá, và không chỉ có tác phẩm Nguyễn Xí.

Sẵn đà cảm hứng sáng tác, Nguyễn Đình Tư còn có những tác phẩm Dì ghẻ, con chồng trên Truyền bá số 103, ra ngày 14/10/1943, Thù chồng nợ nước tập II trên Truyền bá số 113, ra ngày 3/2/1944, Nguồn sống trên Truyền bá số 150, ra ngày 19/10/1944.

Những tưởng các tác phẩm của thuở ban đầu nghiệp viết ấy chỉ còn là kỷ niệm với nhà nghiên cứu bách niên khi những đầu báo in hơn 80 năm trước bởi những chảy trôi của thời gian không còn giữ lại được. May thay, Thư viện quốc gia Pháp vẫn còn lưu gần đầy đủ những số báo Truyền bá có bài viết của tác giả Nguyễn Đình Tư (thiếu Thù chồng nợ nước tập I).

nguồn sống

Nguồn Sống

Được đông đảo độc giả, giới nghiên cứu khoa học xã hội biết đến là nhà nghiên cứu lịch sử, địa chí, nhưng xuất phát điểm của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư, lại là những truyện dài dành cho thiếu nhi. Khởi sự cho nghiệp viết lách ấy, phải quay về hơn 80 năm trước khi năm 1943, tác phẩm đầu tiên truyện dài mang tên “Nguyễn Xí” đăng trên báo Truyền bá số 85, ra ngày 10/6/1943 tại Hà Nội, viết về cụ tổ dòng họ. Lúc đó, chàng trai Nguyễn Đình Tư ở tuổi 23.

Báo Truyền bá khi ấy, có những cây bút đã thành danh, tên tuổi như Nguyễn Công Hoan, Lê Văn Trương, Thâm Tâm… Đây cũng là những tên tuổi bảo chứng cho Nhà xuất bản Tân Dân, đơn vị in ấn, phát hành loại báo in dạng sách nhỏ. Thế mà, chàng trai Nguyễn Đình Tư từ tỉnh lẻ Trung Kỳ đã "chen chân" được lên báo Truyền bá, và không chỉ có tác phẩm Nguyễn Xí.

Sẵn đà cảm hứng sáng tác, Nguyễn Đình Tư còn có những tác phẩm Dì ghẻ, con chồng trên Truyền bá số 103, ra ngày 14/10/1943, Thù chồng nợ nước tập II trên Truyền bá số 113, ra ngày 3/2/1944, Nguồn sống trên Truyền bá số 150, ra ngày 19/10/1944.

Những tưởng các tác phẩm của thuở ban đầu nghiệp viết ấy chỉ còn là kỷ niệm với nhà nghiên cứu bách niên khi những đầu báo in hơn 80 năm trước bởi những chảy trôi của thời gian không còn giữ lại được. May thay, Thư viện quốc gia Pháp vẫn còn lưu gần đầy đủ những số báo Truyền bá có bài viết của tác giả Nguyễn Đình Tư (thiếu Thù chồng nợ nước tập I).

nguyễn xí

Nguyễn Xí

Được đông đảo độc giả, giới nghiên cứu khoa học xã hội biết đến là nhà nghiên cứu lịch sử, địa chí, nhưng xuất phát điểm của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư, lại là những truyện dài dành cho thiếu nhi. Khởi sự cho nghiệp viết lách ấy, phải quay về hơn 80 năm trước khi năm 1943, tác phẩm đầu tiên truyện dài mang tên “Nguyễn Xí” đăng trên báo Truyền bá số 85, ra ngày 10/6/1943 tại Hà Nội, viết về cụ tổ dòng họ. Lúc đó, chàng trai Nguyễn Đình Tư ở tuổi 23.

Báo Truyền bá khi ấy, có những cây bút đã thành danh, tên tuổi như Nguyễn Công Hoan, Lê Văn Trương, Thâm Tâm… Đây cũng là những tên tuổi bảo chứng cho Nhà xuất bản Tân Dân, đơn vị in ấn, phát hành loại báo in dạng sách nhỏ. Thế mà, chàng trai Nguyễn Đình Tư từ tỉnh lẻ Trung Kỳ đã "chen chân" được lên báo Truyền bá, và không chỉ có tác phẩm Nguyễn Xí.

Sẵn đà cảm hứng sáng tác, Nguyễn Đình Tư còn có những tác phẩm Dì ghẻ, con chồng trên Truyền bá số 103, ra ngày 14/10/1943, Thù chồng nợ nước tập II trên Truyền bá số 113, ra ngày 3/2/1944, Nguồn sống trên Truyền bá số 150, ra ngày 19/10/1944.

Những tưởng các tác phẩm của thuở ban đầu nghiệp viết ấy chỉ còn là kỷ niệm với nhà nghiên cứu bách niên khi những đầu báo in hơn 80 năm trước bởi những chảy trôi của thời gian không còn giữ lại được. May thay, Thư viện quốc gia Pháp vẫn còn lưu gần đầy đủ những số báo Truyền bá có bài viết của tác giả Nguyễn Đình Tư (thiếu Thù chồng nợ nước tập I).

ba nàng lính ngự lâm

Ba Nàng Lính Ngự Lâm

Cuốn sách gồm 17 câu chuyện nhỏ xảy ra ở lớp 1G trường Hoa Mai dưới cái nhìn của một cậu bé tên là Xuân Chinh.

Mọi chuyện đều bắt đầu và xoay quanh ba bạn gái là My xinh, Phương hot girl và Lam Anh “hung thần”.

Nào là chuyện trốn trong toa-let để không phải ăn cơm, chuyện một lớp phó học tập được bầu ra đơn giản chỉ vì cậu ta… quậy nhất lớp hay nỗi băn khoăn tại sao bạn này lại thân với bạn kia mà không phải là thân với mình.

Trải qua những phi vụ như Vụ mất tích bí ẩn, Dọa ma, rồi đến Anh hùng toilet, bạn đọc nhí sẽ biết đến Chiến công của My xinh, biết ai là Lính cứu hỏa không mặc quần, ai là Người mẫu và khán giả bất đắc dĩ; rồi cùng đến Nông trại để thăm nom trò chuyện với những cô bò sữa…

Câu chuyện chọn nghề của các bạn nhỏ cũng thật bất ngờ: bạn thì thích làm nghề lái xe, làm phi công, làm lính cứu hỏa, làm bộ đội, bạn thì thích làm nghề nặn tò he, và có bạn còn thích cả làm nghề… hoa hậu. Đó là những cái thích rất đúng với tâm lý của trẻ thơ, là những gì các bạn nhỏ đã được nhìn thấy, thích thú hay ngưỡng mộ.

Mùa hè rồi, hãy cùng nhà văn Nguyễn Đình Tú đưa các bạn đọc nhí thăm thú những miền chữ hấp dẫn qua câu chuyện BA NÀNG LÍNH NGỰ LÂM nhé.

Đây, mấy dòng đầu của nhà văn đã làm các bạn đọc nhí vô cùng hồi hộp:

“Các cậu đã xem phim “Babier và Ba người lính ngự lâm” chưa? Tớ, dĩ nhiên là chưa xem và sẽ không xem. Cái phim dành cho mấy đứa con gái, toàn là mặc váy xanh đỏ tím vàng, con trai như tớ ai lại xem. Chúng tớ chỉ xem phim siêu nhân, đánh nhau bùm bùm bùm thôi. Nhưng mà đến lớp, con trai chúng tớ vẫn phải xem phim Những nàng lính ngự lâm đấy, mà diễn viên chính là các nàng trong lớp chúng tớ. Thế có sợ không cơ chứ. Nàng nào cũng nhận mình là lính ngự lâm, chiến đấu bảo vệ hoàng gia, mồm hét to như cái còi. Và thủ lĩnh của các nàng í là ba nàng cực kỳ hay tự nhận mình là xinh đẹp, là hotgirl và cũng vô cùng dữ dằn. Ba nàng ấy, nàng nào cũng đấm tớ mấy phát, cấu tớ mấy cấu đau ơi là đau rồi đấy”.

bộ loạn 12 sứ quân - tập 1: mộng bá tranh hùng + tập 2: vọng nguyệt đài (1 cuốn)

Loạn 12 Sứ Quân - Tập 1: Mộng Bá Tranh Hùng + Tập 2: Vọng Nguyệt Đài (1 Cuốn)

Theo chính sử: Sau khi Ngô Quyền mất (năm 944), Dương Tam Kha cướp ngôi vua của cháu gọi bằng cậu ruột là Ngô Xương Ngập. Trong triều xảy ra nhiều biến loạn, xung đột, tranh chấp làm cho chính quyền Trung ương suy yếu. Lợi dụng tình trạng đó, các thế lực phong kiến nổi dậy mỗi người hùng cứ một phương tranh chấp đánh phá nhau quyết liệt nhất là từ năm 965 khi chính quyền Trung ương tan rã. Đó là loạn mười hai sứ quân.

Mười hai sứ quân đó là:

Kiều Công Hãn chiếm giữ Phong Châu (Bạch Hạc, Vĩnh Phú)

Kiều Thuận chiếm giữ Hồi Hồ (Cẩm Khê, Vĩnh Phú)

Ngô Nhật Khánh chiếm giữ Đường Lâm (Ba Vì, Hà Tây)

Nguyễn Khoan chiếm giữ Tam Đái (Yên Lạc, Vĩnh Phú)

Đỗ Cảnh Thạc chiếm giữ Đỗ Đặng Giang (Thanh Oai, Hà Tây)

Lý Khuê chiếm giữ Siêu Loại (Thuận Thành, Hà Bắc)

Nguyễn Thủ Tiệp chiếm giữ Tiên Du (Tiên Sơn, Hà Bắc)

Lã Đường chiếm giữ Tô Giang (Văn Lâm, Hải Hưng)

Nguyễn Siêu chiếm giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Nội)

Phạm Bạch Hổ chiếm giữ Đăng Châu (Bàn Động, Hải Hưng)

Trần Lãm chiếm giữ Bố Hải Khẩu (Vũ Tiên, Thái Bình)

Vua Ngô là Ngô Xương Xí cũng rút về chiếm giữ Bình Kiều (Triệu Sơn, Thanh Hóa).

Lãnh địa của mỗi sứ quân bằng khoảng một vài huyện ngày nay, các sứ quân xây thành đắp lũy thôn tính lẫn nhau gây ra biết bao đau khổ cho nhân dân, đi ngược lại nguyện vọng hòa bình thống nhất của dân tộc, nền độc lập vừa mới giành được đứng trước nguy cơ hiểm nghèo. Do đó, yêu cầu sống còn của cả dân tộc là phải giữ vững khối đoàn kết toàn dân, đòi hỏi phải chấm dứt cuộc nổi loạn của mười hai sứ quân, khôi phục quốc gia thống nhất. Người anh hùng dân tộc giương cao ngọn cờ thống nhất quốc gia và hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng trước lịch sử là Đinh Bộ Lĩnh.

Đinh Bộ Lĩnh người làng Hoa Lư, là con người thông minh cương nghị có chí lớn, lúc đầu ông liên kết và đứng dưới cờ của sứ quân Trần Lãm. Trần Lãm chết, ông trở thành người cầm đầu một lực lượng vũ trang hùng mạnh, lần lượt đánh bại cái sứ quân khác. Đến năm 967, Loạn mười hai sứ quân được dập tắt, đất nước được thống nhất. Đây là thắng lợi của xu hướng thống nhất quốc gia, thắng lợi của tinh thần dân tộc và ý chí độc lập mạnh mẽ của nhân dân.

Tác giả Nguyễn Đình Tư rất tâm huyết và ấp ủ đề tài này từ lâu nên đã bỏ ra nhiều công sức khắc phục nhiều khó khăn để thực hiện hoài bão của mình. Nhưng theo tác giả, đề tài này nằm trong giai đoạn khuyết sử. Chính sử chỉ ghi lại các điểm chính còn chi tiết thì sơ sài.Nhiều câu hỏi đặt ra cho tác giả, tác giả đã vận dụng mọi khả năng có thể có được hầu góp phần giải đáp một số câu hỏi có liên quan đến giai đoạn Loạn mười hai sứ quân.

Loạn mười hai sứ quân xảy ra cách đây hơn một nghìn năm nên việc tái tạo hiện thực bối cảnh lịch sử qua trang viết sao cho chuẩn xác phù hợp, kể cả việc sử dụng ngôn từ là rất khó khăn, do đó không tránh khỏi hạn chế ở mặt này, mặt kia. Nhà xuất bản và tác giả mong đươc sự lượng thứ và góp ý của rộng rãi bạn đọc.

bộ loạn 12 sứ quân - tập 3: hoa lư anh hùng tụ nghĩa + tập 4: khói lửa kinh kỳ (1 cuốn)

Loạn 12 Sứ Quân - Tập 3: Hoa Lư Anh Hùng Tụ Nghĩa + Tập 4: Khói Lửa Kinh Kỳ (1 Cuốn)

Theo chính sử: Sau khi Ngô Quyền mất (năm 944), Dương Tam Kha cướp ngôi vua của cháu gọi bằng cậu ruột là Ngô Xương Ngập. Trong triều xảy ra nhiều biến loạn, xung đột, tranh chấp làm cho chính quyền Trung ương suy yếu. Lợi dụng tình trạng đó, các thế lực phong kiến nổi dậy mỗi người hùng cứ một phương tranh chấp đánh phá nhau quyết liệt nhất là từ năm 965 khi chính quyền Trung ương tan rã. Đó là loạn mười hai sứ quân.

Mười hai sứ quân đó là:

Kiều Công Hãn chiếm giữ Phong Châu (Bạch Hạc, Vĩnh Phú)

Kiều Thuận chiếm giữ Hồi Hồ (Cẩm Khê, Vĩnh Phú)

Ngô Nhật Khánh chiếm giữ Đường Lâm (Ba Vì, Hà Tây)

Nguyễn Khoan chiếm giữ Tam Đái (Yên Lạc, Vĩnh Phú)

Đỗ Cảnh Thạc chiếm giữ Đỗ Đặng Giang (Thanh Oai, Hà Tây)

Lý Khuê chiếm giữ Siêu Loại (Thuận Thành, Hà Bắc)

Nguyễn Thủ Tiệp chiếm giữ Tiên Du (Tiên Sơn, Hà Bắc)

Lã Đường chiếm giữ Tô Giang (Văn Lâm, Hải Hưng)

Nguyễn Siêu chiếm giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Nội)

Phạm Bạch Hổ chiếm giữ Đăng Châu (Bàn Động, Hải Hưng)

Trần Lãm chiếm giữ Bố Hải Khẩu (Vũ Tiên, Thái Bình)

Vua Ngô là Ngô Xương Xí cũng rút về chiếm giữ Bình Kiều (Triệu Sơn, Thanh Hóa).

Lãnh địa của mỗi sứ quân bằng khoảng một vài huyện ngày nay, các sứ quân xây thành đắp lũy thôn tính lẫn nhau gây ra biết bao đau khổ cho nhân dân, đi ngược lại nguyện vọng hòa bình thống nhất của dân tộc, nền độc lập vừa mới giành được đứng trước nguy cơ hiểm nghèo. Do đó, yêu cầu sống còn của cả dân tộc là phải giữ vững khối đoàn kết toàn dân, đòi hỏi phải chấm dứt cuộc nổi loạn của mười hai sứ quân, khôi phục quốc gia thống nhất. Người anh hùng dân tộc giương cao ngọn cờ thống nhất quốc gia và hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng trước lịch sử là Đinh Bộ Lĩnh.

Đinh Bộ Lĩnh người làng Hoa Lư, là con người thông minh cương nghị có chí lớn, lúc đầu ông liên kết và đứng dưới cờ của sứ quân Trần Lãm. Trần Lãm chết, ông trở thành người cầm đầu một lực lượng vũ trang hùng mạnh, lần lượt đánh bại cái sứ quân khác. Đến năm 967, Loạn mười hai sứ quân được dập tắt, đất nước được thống nhất. Đây là thắng lợi của xu hướng thống nhất quốc gia, thắng lợi của tinh thần dân tộc và ý chí độc lập mạnh mẽ của nhân dân.

Tác giả Nguyễn Đình Tư rất tâm huyết và ấp ủ đề tài này từ lâu nên đã bỏ ra nhiều công sức khắc phục nhiều khó khăn để thực hiện hoài bão của mình. Nhưng theo tác giả, đề tài này nằm trong giai đoạn khuyết sử. Chính sử chỉ ghi lại các điểm chính còn chi tiết thì sơ sài.Nhiều câu hỏi đặt ra cho tác giả, tác giả đã vận dụng mọi khả năng có thể có được hầu góp phần giải đáp một số câu hỏi có liên quan đến giai đoạn Loạn mười hai sứ quân.

Loạn mười hai sứ quân xảy ra cách đây hơn một nghìn năm nên việc tái tạo hiện thực bối cảnh lịch sử qua trang viết sao cho chuẩn xác phù hợp, kể cả việc sử dụng ngôn từ là rất khó khăn, do đó không tránh khỏi hạn chế ở mặt này, mặt kia. Nhà xuất bản và tác giả mong đươc sự lượng thứ và góp ý của rộng rãi bạn đọc.

bộ loạn 12 sứ quân - tập 5: mưu chước thiền sư + tập 6: vạn thắng vương (1 cuốn)

Loạn 12 Sứ Quân - Tập 5: Mưu Chước Thiền Sư + Tập 6: Vạn Thắng Vương (1 Cuốn)

Theo chính sử: Sau khi Ngô Quyền mất (năm 944), Dương Tam Kha cướp ngôi vua của cháu gọi bằng cậu ruột là Ngô Xương Ngập. Trong triều xảy ra nhiều biến loạn, xung đột, tranh chấp làm cho chính quyền Trung ương suy yếu. Lợi dụng tình trạng đó, các thế lực phong kiến nổi dậy mỗi người hùng cứ một phương tranh chấp đánh phá nhau quyết liệt nhất là từ năm 965 khi chính quyền Trung ương tan rã. Đó là loạn mười hai sứ quân.

Mười hai sứ quân đó là:

Kiều Công Hãn chiếm giữ Phong Châu (Bạch Hạc, Vĩnh Phú)

Kiều Thuận chiếm giữ Hồi Hồ (Cẩm Khê, Vĩnh Phú)

Ngô Nhật Khánh chiếm giữ Đường Lâm (Ba Vì, Hà Tây)

Nguyễn Khoan chiếm giữ Tam Đái (Yên Lạc, Vĩnh Phú)

Đỗ Cảnh Thạc chiếm giữ Đỗ Đặng Giang (Thanh Oai, Hà Tây)

Lý Khuê chiếm giữ Siêu Loại (Thuận Thành, Hà Bắc)

Nguyễn Thủ Tiệp chiếm giữ Tiên Du (Tiên Sơn, Hà Bắc)

Lã Đường chiếm giữ Tô Giang (Văn Lâm, Hải Hưng)

Nguyễn Siêu chiếm giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Nội)

Phạm Bạch Hổ chiếm giữ Đăng Châu (Bàn Động, Hải Hưng)

Trần Lãm chiếm giữ Bố Hải Khẩu (Vũ Tiên, Thái Bình)

Vua Ngô là Ngô Xương Xí cũng rút về chiếm giữ Bình Kiều (Triệu Sơn, Thanh Hóa).

Lãnh địa của mỗi sứ quân bằng khoảng một vài huyện ngày nay, các sứ quân xây thành đắp lũy thôn tính lẫn nhau gây ra biết bao đau khổ cho nhân dân, đi ngược lại nguyện vọng hòa bình thống nhất của dân tộc, nền độc lập vừa mới giành được đứng trước nguy cơ hiểm nghèo. Do đó, yêu cầu sống còn của cả dân tộc là phải giữ vững khối đoàn kết toàn dân, đòi hỏi phải chấm dứt cuộc nổi loạn của mười hai sứ quân, khôi phục quốc gia thống nhất. Người anh hùng dân tộc giương cao ngọn cờ thống nhất quốc gia và hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng trước lịch sử là Đinh Bộ Lĩnh.

Đinh Bộ Lĩnh người làng Hoa Lư, là con người thông minh cương nghị có chí lớn, lúc đầu ông liên kết và đứng dưới cờ của sứ quân Trần Lãm. Trần Lãm chết, ông trở thành người cầm đầu một lực lượng vũ trang hùng mạnh, lần lượt đánh bại cái sứ quân khác. Đến năm 967, Loạn mười hai sứ quân được dập tắt, đất nước được thống nhất. Đây là thắng lợi của xu hướng thống nhất quốc gia, thắng lợi của tinh thần dân tộc và ý chí độc lập mạnh mẽ của nhân dân.

Tác giả Nguyễn Đình Tư rất tâm huyết và ấp ủ đề tài này từ lâu nên đã bỏ ra nhiều công sức khắc phục nhiều khó khăn để thực hiện hoài bão của mình. Nhưng theo tác giả, đề tài này nằm trong giai đoạn khuyết sử. Chính sử chỉ ghi lại các điểm chính còn chi tiết thì sơ sài.Nhiều câu hỏi đặt ra cho tác giả, tác giả đã vận dụng mọi khả năng có thể có được hầu góp phần giải đáp một số câu hỏi có liên quan đến giai đoạn Loạn mười hai sứ quân.

Loạn mười hai sứ quân xảy ra cách đây hơn một nghìn năm nên việc tái tạo hiện thực bối cảnh lịch sử qua trang viết sao cho chuẩn xác phù hợp, kể cả việc sử dụng ngôn từ là rất khó khăn, do đó không tránh khỏi hạn chế ở mặt này, mặt kia. Nhà xuất bản và tác giả mong đươc sự lượng thứ và góp ý của rộng rãi bạn đọc.

bộ combo chế độ thực dân pháp trên đất nam kỳ 1859-1954: tập 1 + 2 (bộ 2 tập)

Combo Chế Độ Thực Dân Pháp Trên Đất Nam Kỳ 1859-1954: Tập 1 + 2 (Bộ 2 Tập) 

Gần 100 năm cai trị vùng đất Nam Bộ, người Pháp đã gây ra bao tội ác đối với nhân dân ta. Nhưng ngày nay chế độ thực dân Pháp đã cáo chung hơn nửa thế kỷ, những gì Pháp làm tổn hại đến nhân dân ta đã đi vào dĩ vãng.

Những lớp người sinh ra sau năm 1954 không còn thấy những cảnh người Pháp bắt nhốt hàng trăm chiến sĩ yêu nước của ta, đem ra tòa án xét xử, kết tội tử hình đem ra pháp trường xử bắn, hoặc kết án tù chung thân khổ sai, giam cầm đày đọa trong các nhà tù với những hình thức tra tấn cực kỳ dã man của thời trung cổ; không còn thấy những cảnh nhân dân nghèo khổ ở nông thôn và thành thị không đủ khả năng đóng sưu, đóng thuế, phải trốn chui trốn nhủi để tránh sự lùng bắt của bọn tuần đinh, mã tà; không còn thấy cảnh các tá điền bị chủ đồn điền bóc lột tận xương tận tủy, phải bán vợ đợ con cho bọn cường hào địa chủ; không còn thấy những cảnh cu li tại các đồn điền cao su bị bọn chủ thực dân Pháp sai bọn cặp rằng đánh đập, cưỡng bức lao động tận lực mà không cho ăn đầy đủ đến nỗi phải chết dần chết mòn, đem thân xác làm phân bón cho cây cao su v.v.. mà chỉ thấy những gì người Pháp còn để lại như các dinh thự, lâu đài nguy nga tráng lệ ở các thành thị, những tuyến đường kinh thẳng tắp thuận tiện cho việc lưu thông tàu thuyền từ các tỉnh miền Tây lên Sài Gòn, những tuyến đường bộ nối liền các tỉnh với nhau mà xe hơi các loại chạy bon bon, những bệnh viện đầy đủ tiện nghi với những lớp bác sĩ do các trường của Pháp đào tạo, những trường học khang trang  mà ngày nay con cháu chúng ta đang lui tới học tập.

Vì chỉ thấy những cái đó nên lớp người mới này đã hiểu một cách mơ hồ, thậm chí không đúng với bản chất của chế độ thực dân Pháp trong quá khứ.

Nhưng rất tiếc cho tới nay chưa có một công trình nghiên cứu nào viết đầy đủ về thời gian người Pháp cai trị xứ Nam Kỳ để lớp hậu sinh biết được sự thật về chế độ thực dân Pháp, về nỗi đau khổ của nhân dân ta dưới sự kìm kẹp của thực dân Pháp, biết được sự hy sinh xương máu của cha ông ta đã đổ ra mới có được nền độc lập ngày nay.

Trong thời gian sưu tầm tài liệu để viết cuốn Từ điển địa danh hành chính Nam Bộ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, tôi có sưu tầm được một số lớn các sắc lệnh, nghị định suốt gần 100 năm của chính quyền thực dân Pháp trên đất Nam Kỳ đăng trong bộ Bulletin Officiel de la Cochinchine Française và Bulletin Administratif de la Cochinchine Française về những gì người Pháp đã làm ở đây. Nay có dịp trở lại Trung tâm tìm hiểu thì hầu hết các số báo ấy đã bị mủn nát, không còn khai thác được nữa. Thiển nghĩ những gì tôi đã sưu tập được, nếu không đem ra công bố rộng rãi cũng sẽ cùng chung số phận như những số báo kia thì uổng quá. Vì vậy, không quản tuổi già sức yếu (94 tuổi) và khả năng có hạn, tôi tập hợp số tư liệu ấy trong một công trình biên khảo dưới nhan đề Chế độ thực dân Pháp trên đất Nam Kỳ (1859 - 1954) (gồm 2 tập) coi như một tập hợp các tài liệu gốc để sau này các nhà nghiên cứu trẻ sử dụng thực hiện những công trình giá trị và sâu sắc hơn.

Là một công trình của cá nhân, chắc không khỏi có nhiều khuyết điểm, kính mong chư vị chỉ giáo cho. Xin chân thành cảm ơn!

NGUYỄN ĐÌNH TƯ

1. Chế Độ Thực Dân Pháp Trên Đất Nam Kỳ 1859-1954 - Tập 1 (Tái Bản 2018)

2. Chế Độ Thực Dân Pháp Trên Đất Nam Kỳ 1859-1954 - Tập 2 (Tái Bản 2018)

tiểu sử và hành trạng các nhà khoa bảng hán học nam bộ

Trong vòng 51 năm (1813 - 1864) mà 6 tỉnh toàn Nam Kỳ chỉ có 257 vị Cử nhân Hán học thì thật quá ít. Sở dĩ như vậy, vì Nam Kỳ là đất mới, dân chúng quen với nghề ruộng rẫy lo miếng cơm manh áo hơn là chuyện bút nghiên nơi cửa Khổng sân Trình, mặc dầu triều đình vẫn dành riêng sự ưu ái với người dân Nam Kỳ là đất hưng nghiệp của nhà Nguyễn, lo việc mở mang dân trí bằng cách cử một vị Tiến sĩ triều Lê vào làm Đốc học ở thành Gia Định như trên đã nói.

Nhưng một con én không làm nổi mùa xuân, khiến cho nhiều học trò "có người trải tám khóa mà không đủ văn thể tứ trường, thành thần tạm khế khóa để miễn binh dao, lại tâu xin gia ân cho biên vào sổ khóa sinh.

So với nhiều tỉnh ở miền Trung và miền Bắc, tổng số Cử nhân Hán học của 6 tỉnh Nam Kỳ chỉ bằng tổng số Cử nhân của một hay hai tỉnh ở miền ngoài. Rồi lại so với ngày nay, số Cử nhân và Kỹ sư, kể cả Thạc sĩ, Tiến sĩ tân học tốt nghiệp Đại học nhiều khộng kể xiết. Nhưng ngày xưa, thi đỗ được cái bằng Cử nhân Hán học vô cùng khó khăn, có khi hết nửa cuộc đời. Đúng là đãi cát tìm vàng. Do đó các vị Cử nhân và Tiến sĩ Hán học nói trên là những hạt kim cương trên bãi cát của sông Cửu Long và sông Đồng Nai, quý giá vô cùng, mà ngày nay các thế hệ con cháu phải hết sức trân trọng.

Trên tinh thần đó, chúng tôi biên soạn cuốn sách này để giới thiệu với độc giả, nhất là độc giả ở Nam Bộ, tiểu sử và hành trạng của các vị khoa bảng ấy vừa để tôn vinh từng vị, vừa để con cháu các vị ấy hãnh diện về tiền nhân của mình" (Nguyễn Đình Tư)

bãi săn 2: phản đồ

Trận chiến truyền kiếp giữa người Vượn và các tộc người thú còn lại trên Trái Đất, giữa những Thợ săn và những Con mồi trên Bãi săn vô hình cùng hành trình khám phá của nhóm bạn trẻ về bí mật của Không Lộ viện. Truyện mang màu sắc huyền sử, thần học, gắn liền với giai đoạn lịch sử thời nhà Lý.

Nối tiếp sự thành công của Bãi săn 1: Giếng cổ và để giải đáp những câu hỏi còn bỏ ngỏ: số phận của thầy Toàn? Những nhân vật mới như Hạnh Thoa, Đăng Khoa đã xuất có báo hiệu những biến cố gì hay không? Nguồn gốc của không lộ viện? hội truyền nhân tại sao chỉ còn là những ký ức, mảnh chắp vá,…? Sẽ được tác giả Nguyễn Đình Tú giải đáp trong phần 2 này.

Thông điệp của cuốn tiểu thuyết:

Cuộc đời xét cho cùng là một bãi săn, để những thợ săn và con mồi tiêu diệt nhau mà thôi. Vì thế cần những người người đứng trên hận thù để bảo vệ sự bình yên của cuộc sống này.

+TRÍCH ĐOẠN:

Nhưng kỵ sĩ không đầu vẫn kịp đưa gậy xương sống lên đón lấy chiếc đầu lâu trở về với đầu gậy. Sau đó hắn tập trung thần lực, dùng hai bàn chân dập mạnh xuống mặt đất, đẩy cả người hắn cùng Xà nhân lao băng băng về phía trước. Với cú đẩy này, kỵ sĩ không đầu hy vọng có thể hất được Minh Tín ra khỏi người mình, nhưng cho đến khi cả hai cùng lao xuống vách núi thì uy lực của kim giáp mới khiến chú bé gõ trống tuột khỏi kẻ mà cậu muốn cùng cưa đôi mạng sống.

Nhưng đúng vào lúc mà Minh Tín khua vang những hồi trống tài hoa nhất thì Huyền Như đứng lên và bước từng bước trên sân khấu trước ánh mắt kinh hoàng của những chàng phu kiệu. Bảo Huy là người đầu tiên đánh sai cả nốt nhạc khi nhìn thấy Huyền Như bước ra khỏi kiệu vàng.

bãi săn phần 1: giếng cổ

Bãi Săn Phần 1: Giếng Cổ

Bãi săn là câu chuyện về trận chiến truyền kiếp giữa người Vượn và các tộc người thú còn lại trên Trái Đất, giữa những Thợ săn và những Con mồi trên Bãi săn vô hình cùng hành trình khám phá của nhóm bạn trẻ về bí mật của Không Lộ viện. Truyện mang màu sắc huyền sử, thần học, gắn liền với giai đoạn lịch sử thời nhà Lý.

Phần 1: Giếng cổ mở ra bối cảnh đại học quốc tế Đế Đô, Không Lộ tự, Không Lộ viện, khơi dậy những bí ẩn trong quá khứ từ hàng trăm năm cho tới những thập kỷ vừa mới qua, kéo nhóm bạn Huyền Như, Bảo Huy, Minh Tín và tập thể lớp K10L1 vào một bãi săn vô hình cùng Đại Dương, tiểu Mộc và những tập đoàn thế lực khác tồn tại từ xa xưa.

Bãi săn là cuốn tiểu thuyết huyền sử, trinh thám, kỳ bí... mang đậm màu sắc văn hóa và giá trị nhân văn.

Thông điệp tác giả muốn gửi gắm qua tác phẩm: Cuộc đời xét cho cùng là một bãi săn, để những thợ săn và con mồi tiêu diệt nhau mà thôi. Vì thế cần những người người đứng trên hận thù để bảo vệ sự bình yên của cuộc sống này.

Trích dẫn tiêu biểu:

Tín dần hiểu ra rằng, bảy tỷ người trên thế gian này hóa ra không thuần chủng về nguồn gốc như cậu vẫn tưởng. Cả triệu năm qua, các Phường săn vẫn tồn tại, đồng nghĩa với việc các Bãi săn sẽ xuất hiện khắp nơi trên thế giới, và cuộc chiến giữa Thợ săn và các Con mồi sẽ không bao giờ có hồi kết.

Trong một cuộc chạm trán ở Bãi săn ngay trên chính đảo quốc thanh bình này, mẹ đã không tránh khỏi một vết cắn trầm trọng từ người thú có tên là Xà nhân. Mẹ bị biển đổi và nếu không tìm đến cái chết thì chẳng mấy chốc, trên cơ thể mẹ sẽ mọc đầy vảy rắn, chưa kể, thứ nọc độc của Xà nhân mà mẹ nhiễm phải sẽ gây nguy hiểm cho chính những người thân trong nhà trước tiên.

Huyền Như nhấp thêm một ngụm trà sen nữa. Cô bắt đầu thấy vị ngọt hậu sau cái đắng chát của vị trà. Cô đã hiểu thêm về Không Lộ tự và Không Lộ viện, cũng có nghĩa là cô đã hiểu thêm về ngoại diên của cái đề tài mà cô và hai người bạn đang theo đuổi. Những điều hòa thượng vừa cho cô biết đáng giá hơn cả ngàn trang sách cổ mà cô phải mò mẫm đọc suốt bao ngày. Hôm nay cô còn được chứng kiến một điều thú vị ở ngôi chùa này. Những người mà cô vừa nhìn thấy lúc mới đến đây chính là truyền nhân của các vị đạo sinh năm xưa. Họ tụ họp nhau lại để làm gì? Họ muốn làm sống dậy những phép thần thông biến hóa, muốn tìm lại khả năng hô mây gọi gió, hay muốn sở hữu những nguồn năng lực điểu khiển được cả thần tiên, ma quỷ?

Tín không biết rồi đây mình sẽ trở thành loại người nào trước sự biến đổi mỗi lúc một khủng khiếp trên cơ thể? Nếu cứ thế này, Bãi săn hóa ra sẽ xuất hiện ngay trong ngôi nhà của Tín, và người kết liễu cuộc đời người thú Minh Tín rất có thể sẽ chính là bố Tín.

Oan nghiệt quá! Càng nghĩ Tín càng không thoát ra khỏi sự sân hận đang bủa vây. Những người Thợ săn không thể không cầm súng. Và người thú không thể không bị tiêu diệt. Mẹ Tín đã tìm đến cái chết chỉ vì không thể sống nổi trong lốt người thú. Tín cũng sẽ không thể sống nổi nếu hàng đêm cứ bị triệu hồi tới phục vụ cho một thế lực hắc ám nào đó mà Tín không thể cưỡng lại được. Như thế có nghĩa là cuộc sống của Tín đã không còn thuộc về Tín nữa.  

xác phàm

Xác Phàm

Cuốn tiểu thuyết là câu chuyện về thời bình-thời chiến đan xen qua lối kể “toàn tri” của nhân vật Nam. Thời chiến là cuộc chiến đấu bảo vệ lãnh thổ ở biên giới phía Bắc, đầy khốc liệt với những người liệt sĩ đủ lứa tuổi kiên cường, anh dũng. Thời bình là câu chuyện của người trai trẻ tên Nam với mối tình đồng giới “kì lạ” và hành trình đi tìm chính mình. Qua đó tác giả muốn chuyển tải những thông điệp đa nghĩa, nhiều âm hưởng về nhân nghĩa, ân tình.

Đọc Xác phàm để cùng Nguyễn Đình Tú chìm vào và mải mê chu du với các nhân vật từ hiện thực về quá khứ, từ quá khứ đến thực tại – hành trình đi tìm bản ngã. Bản ngã ấy là cái tôi của Nam, của Việt, của chính tác giả, hay đó còn là cái TÔI của một dân tộc. 

Lược trích:

- Nam là ai? Câu hỏi này anh đã tự đặt ra cho mình không biết bao nhiêu lần. Nhưng người đặt ra câu hỏi ấy trước cả Nam chính là Việt. Cái trưa mùa hè oi bức ấy, khi hai đứa tụt quần ra để lao xuống đầm sen tắm thì Việt đã ngỡ ngàng hỏi Nam: - Mày là ai vậy?

- Bố em rọi ánh đèn pin theo, thấy khuôn mặt cu Lỏi đã bợt bạt lắm rồi. Bố em thơm vào má cu Lỏi, nói nhỏ: “Cháu cố gắng nhé!”. Cu Lỏi mấp máy môi muốn nói điều gì đó nhưng không nói được, chỉ giơ tay chỉ vào vết thương trước ngực. Bố em đã hiểu ý nó muốn nói gì. Bố em xoa đầu nó, khẽ thì thầm vào tai: “Chú biết rồi. Cháu dũng cảm lắm. Có chết thì cũng phải chết bằng những viên đạn bắn từ phía trước ngực. Nhưng cháu không chết được. Cháu phải sống. Chú cháu mình phải sống và phải ra khỏi nơi đây.

- Chẳng lẽ cuộc đời lại xảy ra một điều kỳ lạ như thế này đối với anh sao? Em đến từ những mảnh cát bụi nào? Đất, nước và không khí nào sinh ra em, một đóa hoa chỉ tỏa hương thay cho loài khác? Tại sao em lại chọn mái nhà tranh ấy để ra đời? Tại sao em lại chọn người mẹ đau khổ ấy để bú mớm và sinh tồn? Tại sao em lại chọn đầm sen ấy để có những liên kết kỳ lạ với anh? Tại sao em lại chọn nghề báo để viết về những câu chuyện lịch sử xa xưa? Tại sao em lại ăn chay để nuôi dưỡng một xác phàm trong sạch rồi phá giới để trở nên nhanh chóng lụi tàn?

bộ chế độ thực dân pháp trên đất nam kỳ 1859-1954 - tập 1 (tái bản 2018)

Chế Độ Thực Dân Pháp Trên Đất Nam Kỳ 1859-1954 - Tập 1 (Tái Bản 2018)

Gần 100 năm cai trị vùng đất Nam Bộ, người Pháp đã gây ra bao tội ác đối với nhân dân ta. Nhưng ngày nay chế độ thực dân Pháp đã cáo chung hơn nửa thế kỷ, những gì Pháp làm tổn hại đến nhân dân ta đã đi vào dĩ vãng.

 

Những lớp người sinh ra sau năm 1954 không còn thấy những cảnh người Pháp bắt nhốt hàng trăm chiến sĩ yêu nước của ta, đem ra tòa án xét xử, kết tội tử hình đem ra pháp trường xử bắn, hoặc kết án tù chung thân khổ sai, giam cầm đày đọa trong các nhà tù với những hình thức tra tấn cực kỳ dã man của thời trung cổ; không còn thấy những cảnh nhân dân nghèo khổ ở nông thôn và thành thị không đủ khả năng đóng sưu, đóng thuế, phải trốn chui trốn nhủi để tránh sự lùng bắt của bọn tuần đinh, mã tà; không còn thấy cảnh các tá điền bị chủ đồn điền bóc lột tận xương tận tủy, phải bán vợ đợ con cho bọn cường hào địa chủ; không còn thấy những cảnh cu li tại các đồn điền cao su bị bọn chủ thực dân Pháp sai bọn cặp rằng đánh đập, cưỡng bức lao động tận lực mà không cho ăn đầy đủ đến nỗi phải chết dần chết mòn, đem thân xác làm phân bón cho cây cao su v.v.. mà chỉ thấy những gì người Pháp còn để lại như các dinh thự, lâu đài nguy nga tráng lệ ở các thành thị, những tuyến đường kinh thẳng tắp thuận tiện cho việc lưu thông tàu thuyền từ các tỉnh miền Tây lên Sài Gòn, những tuyến đường bộ nối liền các tỉnh với nhau mà xe hơi các loại chạy bon bon, những bệnh viện đầy đủ tiện nghi với những lớp bác sĩ do các trường của Pháp đào tạo, những trường học khang trang  mà ngày nay con cháu chúng ta đang lui tới học tập.

 

Vì chỉ thấy những cái đó nên lớp người mới này đã hiểu một cách mơ hồ, thậm chí không đúng với bản chất của chế độ thực dân Pháp trong quá khứ.

 

Nhưng rất tiếc cho tới nay chưa có một công trình nghiên cứu nào viết đầy đủ về thời gian người Pháp cai trị xứ Nam Kỳ để lớp hậu sinh biết được sự thật về chế độ thực dân Pháp, về nỗi đau khổ của nhân dân ta dưới sự kìm kẹp của thực dân Pháp, biết được sự hy sinh xương máu của cha ông ta đã đổ ra mới có được nền độc lập ngày nay.

 

Trong thời gian sưu tầm tài liệu để viết cuốn Từ điển địa danh hành chính Nam Bộ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, tôi có sưu tầm được một số lớn các sắc lệnh, nghị định suốt gần 100 năm của chính quyền thực dân Pháp trên đất Nam Kỳ đăng trong bộ Bulletin Officiel de la Cochinchine Française và Bulletin Administratif de la Cochinchine Française về những gì người Pháp đã làm ở đây. Nay có dịp trở lại Trung tâm tìm hiểu thì hầu hết các số báo ấy đã bị mủn nát, không còn khai thác được nữa. Thiển nghĩ những gì tôi đã sưu tập được, nếu không đem ra công bố rộng rãi cũng sẽ cùng chung số phận như những số báo kia thì uổng quá. Vì vậy, không quản tuổi già sức yếu (94 tuổi) và khả năng có hạn, tôi tập hợp số tư liệu ấy trong một công trình biên khảo dưới nhan đề Chế độ thực dân Pháp trên đất Nam Kỳ (1859 - 1954) (gồm 2 tập) coi như một tập hợp các tài liệu gốc để sau này các nhà nghiên cứu trẻ sử dụng thực hiện những công trình giá trị và sâu sắc hơn.

 

Là một công trình của cá nhân, chắc không khỏi có nhiều khuyết điểm, kính mong chư vị chỉ giáo cho. Xin chân thành cảm ơn!

NGUYỄN ĐÌNH TƯ

 

bộ chế độ thực dân pháp trên đất nam kỳ 1859-1954 - tập 2 (tái bản 2018)

Chế Độ Thực Dân Pháp Trên Đất Nam Kỳ 1859-1954 - Tập 2 (Tái Bản 2018)

Gần 100 năm cai trị vùng đất Nam Bộ, người Pháp đã gây ra bao tội ác đối với nhân dân ta. Nhưng ngày nay chế độ thực dân Pháp đã cáo chung hơn nửa thế kỷ, những gì Pháp làm tổn hại đến nhân dân ta đã đi vào dĩ vãng.

 

Những lớp người sinh ra sau năm 1954 không còn thấy những cảnh người Pháp bắt nhốt hàng trăm chiến sĩ yêu nước của ta, đem ra tòa án xét xử, kết tội tử hình đem ra pháp trường xử bắn, hoặc kết án tù chung thân khổ sai, giam cầm đày đọa trong các nhà tù với những hình thức tra tấn cực kỳ dã man của thời trung cổ; không còn thấy những cảnh nhân dân nghèo khổ ở nông thôn và thành thị không đủ khả năng đóng sưu, đóng thuế, phải trốn chui trốn nhủi để tránh sự lùng bắt của bọn tuần đinh, mã tà; không còn thấy cảnh các tá điền bị chủ đồn điền bóc lột tận xương tận tủy, phải bán vợ đợ con cho bọn cường hào địa chủ; không còn thấy những cảnh cu li tại các đồn điền cao su bị bọn chủ thực dân Pháp sai bọn cặp rằng đánh đập, cưỡng bức lao động tận lực mà không cho ăn đầy đủ đến nỗi phải chết dần chết mòn, đem thân xác làm phân bón cho cây cao su v.v.. mà chỉ thấy những gì người Pháp còn để lại như các dinh thự, lâu đài nguy nga tráng lệ ở các thành thị, những tuyến đường kinh thẳng tắp thuận tiện cho việc lưu thông tàu thuyền từ các tỉnh miền Tây lên Sài Gòn, những tuyến đường bộ nối liền các tỉnh với nhau mà xe hơi các loại chạy bon bon, những bệnh viện đầy đủ tiện nghi với những lớp bác sĩ do các trường của Pháp đào tạo, những trường học khang trang  mà ngày nay con cháu chúng ta đang lui tới học tập.

 

Vì chỉ thấy những cái đó nên lớp người mới này đã hiểu một cách mơ hồ, thậm chí không đúng với bản chất của chế độ thực dân Pháp trong quá khứ.

 

Nhưng rất tiếc cho tới nay chưa có một công trình nghiên cứu nào viết đầy đủ về thời gian người Pháp cai trị xứ Nam Kỳ để lớp hậu sinh biết được sự thật về chế độ thực dân Pháp, về nỗi đau khổ của nhân dân ta dưới sự kìm kẹp của thực dân Pháp, biết được sự hy sinh xương máu của cha ông ta đã đổ ra mới có được nền độc lập ngày nay.

 

Trong thời gian sưu tầm tài liệu để viết cuốn Từ điển địa danh hành chính Nam Bộ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, tôi có sưu tầm được một số lớn các sắc lệnh, nghị định suốt gần 100 năm của chính quyền thực dân Pháp trên đất Nam Kỳ đăng trong bộ Bulletin Officiel de la Cochinchine Française và Bulletin Administratif de la Cochinchine Française về những gì người Pháp đã làm ở đây. Nay có dịp trở lại Trung tâm tìm hiểu thì hầu hết các số báo ấy đã bị mủn nát, không còn khai thác được nữa. Thiển nghĩ những gì tôi đã sưu tập được, nếu không đem ra công bố rộng rãi cũng sẽ cùng chung số phận như những số báo kia thì uổng quá. Vì vậy, không quản tuổi già sức yếu (94 tuổi) và khả năng có hạn, tôi tập hợp số tư liệu ấy trong một công trình biên khảo dưới nhan đề Chế độ thực dân Pháp trên đất Nam Kỳ (1859 - 1954) (gồm 2 tập) coi như một tập hợp các tài liệu gốc để sau này các nhà nghiên cứu trẻ sử dụng thực hiện những công trình giá trị và sâu sắc hơn.

 

Là một công trình của cá nhân, chắc không khỏi có nhiều khuyết điểm, kính mong chư vị chỉ giáo cho. Xin chân thành cảm ơn!

NGUYỄN ĐÌNH TƯ

 

địa chí hành chính các tỉnh nam kỳ thời pháp thuộc (1859-1954)

Địa Chí Hành Chính Các Tỉnh Nam Kỳ Thời Pháp Thuộc (1859-1954)

Trong tác phẩm Chế độ thực dân Pháp trên đất Nam kỳ (1859-1954), phần nói về công việc tổ chức nền hành chính của người Pháp trên địa bàn các tỉnh, vì khuôn khổ nội dung có hạn của các chương mục, tôi chỉ nói được một cách đại cương, không thể đi vào chi tiết. Do đó một số tư liệu chưa dùng đến, mà tôi cho là rất quý, cần thiết và hữu ích cho những bạn đọc muốn biết cụ thể hơn, nếu không công bố thì uổng quá.

Đó là những văn kiện ghi nhận quá trình sắp xếp, điều chỉnh lại ranh giới và tên gọi các đơn vị hành chính từ cấp làng xã đến cấp quận, tỉnh từ đầu thới Pháp thuộc để có được một hệ thống mà ngày nay đa số vẫn còn tồn tại. Số văn kiện này thuộc loại quý hiếm, sẽ giúp ích rất nhiều cho các tỉnh trong việc biên soạn tiến trình thành lập và phát triển các đơn vị hành chính qua từng giai đoạn lịch sử liên tục của tỉnh... Những văn kiện cho chúng ta biết được tiến trình phát triển dân số của mỗi tỉnh ở Nam Kỳ thời pháp thuộc, qua từng năm hay từng giai đoạn... Những văn kiện bổ dụng các chức vụ đứng đầu mỗi tỉnh suốt thời gian người Pháp cai trị đất Nam Kỳ, rất hữu ích cho những người muốn tra cứu, tìm hiểu những quan chức người Pháp đã gây nên những việc không tốt hay đã làm những việc phúc lợi cho dân ta trong thời gian họ trấn nhậm... Những văn kiện liên quan đến việc quy hoạch đường sá đi khắp các vùng nông thôn, mà ngày nay chúng ta đang sử dụng, cải tạo, mở rộng, nâng cấp thành những đường giao thông trải nhựa hay tráng xi măng, rất tiện lợi cho việc lưu thông đủ loại xe cộ cơ giới văn minh.

(trích Lời nói đầu)

nam kỳ địa hạt tổng thôn danh hiệu mục lục

Nam Kỳ Địa Hạt Tổng Thôn Danh Hiệu Mục Lục

Nam Kỳ Địa Hạt Tổng Thôn Danh Hiệu Mục Lục là cuốn sách lịch sử cung cấp cho chúng ta một bản thống kê tương đối đầy đủ và sớm nhất về tên các tổng, thôn của Nam Kỳ thời kỳ đầu thuộc Pháp.

… “Tập tài liệu Nam Kỳ địa hạt tổng thôn danh hiệu mục lục là một tập tài liệu rất quý, vì trong các thư viện và trung tâm lưu trữ quốc gia, kể cả Trung tâm lưu trữ Quốc gia II ở Thành phố Hồ Chí Minh là nơi quy tập tất cả các tư liệu thuộc thời kỳ Pháp thuộc tại Nam Kỳ, không nơi nào có, chỉ một bản duy nhất lưu trữ tại Thư viện Khoa học Xã hội tại Hà Nội, ký hiệu A 975. Nó cung cấp cho chúng ta một bản thống kê tương đối đầy đủ và sớm nhất về tên các tổng, thôn của Nam Kỳ thời kỳ đầu thuộc Pháp. Với tập tài liệu này, chúng ta có thể đối chiếu với các Quyết định, Nghị định của chính quyền thuộc địa Nam Kỳ về việc thay đổi địa giới và địa danh hành chánh từ đầu Pháp thuộc đến năm 1892 để thiết lập một bản thống kê tương đối sát thực tế của các tổng, thôn dưới triều Thiệu Trị, Tự Đức của 6 tỉnh Nam Kỳ, trước khi người Pháp đến, cái mà hiện nay chúng ta chưa có.”…

(trích Lời nói đầu)

1
Kiến Thức Chia Sẻ là chuyên trang chia sẻ tài liệu học tập hay và sách PDF miễn phí, giúp người học tiếp cận nguồn kiến thức phong phú và đa dạng. Từ sách giáo trình, tài liệu ôn thi đến ebook chuyên ngành, trang web cung cấp đầy đủ nội dung chất lượng, hỗ trợ học tập hiệu quả. Với giao diện thân thiện và kho tài nguyên cập nhật liên tục, đây là địa chỉ tin cậy cho mọi đối tượng học sinh, sinh viên, và người đam mê tri thức. Truy cập ngay để khám phá và tải sách PDF hoàn toàn miễn phí!

VỀ KIENTHUCCHIASE.COM

icon shopee