65 Bí Kíp Đọc Sách Dành Cho Mọi Người: Khơi Dậy Niềm Đam Mê, Nâng Cấp Cuộc Sống
Bạn đang băn khoăn về việc đọc sách? Bạn muốn đọc sách nhưng không biết bắt đầu từ đâu? Hay bạn muốn hình thành thói quen đọc sách nhưng vẫn chưa tìm được hướng đi phù hợp?
65 Bí Kíp Đọc Sách Dành Cho Mọi Người sẽ là người bạn đồng hành lý tưởng giúp bạn giải đáp những câu hỏi trên và nhiều điều thú vị khác về việc đọc sách.
Hành Trình Khám Phá Thế Giới Sách Cùng Nguyễn Quốc Vương
Tác giả Nguyễn Quốc Vương, một chuyên gia nghiên cứu về văn hóa đọc, đã tổng hợp những kinh nghiệm quý báu từ hàng trăm buổi nói chuyện, diễn thuyết về khuyến đọc để tạo nên cuốn sách độc đáo này.
Nội dung cuốn sách xoay quanh các chủ điểm chính:
Vai trò, ý nghĩa của việc đọc sách: Tác giả khẳng định tầm quan trọng của việc đọc sách trong việc nâng cao kiến thức, kỹ năng, phát triển bản thân và đóng góp cho xã hội.
Đọc sách như thế nào: Với những lời khuyên thực tế, tác giả đưa ra hướng dẫn chi tiết về cách lựa chọn sách phù hợp, phương pháp đọc hiệu quả, cách ghi nhớ thông tin, rèn luyện tư duy phản biện và nhiều bí kíp khác.
Khuyến đọc cho trẻ và cho mọi người: Tác giả chia sẻ những kinh nghiệm quý báu về cách khơi dậy niềm yêu thích đọc sách ở trẻ em, tạo dựng môi trường đọc hiệu quả và lan tỏa văn hóa đọc trong cộng đồng.
Lý Do Nên Chọn 65 Bí Kíp Đọc Sách Dành Cho Mọi Người
65 Bí Kíp Đọc Sách Dành Cho Mọi Người là một cuốn sách đầy tâm huyết, mang đến những lời gợi mở và giải đáp cho những câu hỏi thường gặp về việc đọc sách, ví dụ như:
Liệu đọc sách có thể kiếm tiền không?
Làm thế nào để chọn được sách tốt, sách hay?
Nên làm gì khi đọc sách mà không hiểu?
Bắt đầu đọc sách khi đã trưởng thành có phải là quá muộn?
Cuốn sách không chỉ dành cho những người mới bắt đầu đọc sách, mà còn là nguồn tài liệu hữu ích cho những người đã có thói quen đọc sách muốn nâng cao kỹ năng đọc và phát triển bản thân.
Review:
Cuốn sách 65 Bí Kíp Đọc Sách Dành Cho Mọi Người là một cuốn sách đáng đọc dành cho mọi đối tượng, từ người lớn đến trẻ em, từ những người yêu thích đọc sách đến những người chưa có thói quen đọc. Với phong cách viết súc tích, dễ hiểu, tác giả Nguyễn Quốc Vương đã khéo léo kết hợp những lý thuyết về đọc sách với những ví dụ thực tế, giúp bạn đọc tiếp thu kiến thức một cách dễ dàng và hiệu quả. Cuốn sách thực sự là một nguồn cảm hứng, động lực giúp bạn khơi dậy niềm đam mê đọc sách và biến việc đọc sách thành một lối sống.
Xây Dựng Tủ Sách Gia Đình - Cùng Đọc Để Sống Hạnh Phúc Và Kiến Tạo Xã Hội Văn Minh
Giới thiệu tác giả và ý tưởng chính
Tác giả Nguyễn Quốc Vương, một người đam mê giáo dục và nghiên cứu giáo dục, luôn coi trọng vai trò nền tảng của giáo dục gia đình. Với mong muốn mỗi gia đình Việt Nam đều có một tủ sách hoặc thư viện, ông đã viết cuốn sách "Xây Dựng Tủ Sách Gia Đình - Cùng Đọc Để Sống Hạnh Phúc Và Kiến Tạo Xã Hội Văn Minh" như một lời khẳng định: "Khi đó nhà nhà có sách, người người đều đọc sách. Mỗi gia đình ở Việt Nam sẽ trở thành gia đình đọc sách. Dân tộc Việt Nam sẽ trở thành dân tộc yêu sách và đọc sách."
Nội dung chính
Cuốn sách này là câu trả lời cho những câu hỏi thường gặp: "Làm thế nào để trẻ thích đọc sách?" và "Làm thế nào để người lớn cầm đến sách là không buồn ngủ?". Tác giả chia sẻ kinh nghiệm và kiến thức của mình dựa trên hàng trăm cuộc nói chuyện về văn hóa đọc trên khắp cả nước, từ trường học, nhà tù, cơ quan công an, công ty, nhà thờ...
Giá trị của việc đọc sách và tủ sách gia đình
Tác giả nhấn mạnh rằng hạnh phúc của cá nhân, sự phồn vinh của gia đình và sự phát triển của cộng đồng là những yếu tố gắn kết chặt chẽ với nhau. Việc đọc sách và xây dựng tủ sách gia đình không chỉ mang lại lợi ích cho bản thân và gia đình mà còn góp phần tạo nên một xã hội văn minh và phát triển.
Hướng dẫn xây dựng và vận hành tủ sách gia đình
Cuốn sách cung cấp những thông tin chi tiết về:
Thiết kế giá sách: Tác giả đưa ra các gợi ý và phương pháp để thiết kế một giá sách phù hợp với diện tích và nhu cầu của mỗi gia đình.
Lựa chọn sách: Cuốn sách hướng dẫn cách chọn sách phù hợp với lứa tuổi, sở thích của từng thành viên trong gia đình.
Cách đọc sách cùng con: Tác giả chia sẻ những phương pháp hiệu quả giúp trẻ hứng thú với việc đọc sách, tạo dựng thói quen đọc sách từ nhỏ.
"Chữa bệnh buồn ngủ" của người lớn: Cuốn sách cung cấp những kỹ thuật đọc hiệu quả giúp người lớn dễ dàng tiếp cận với sách và tận hưởng niềm vui đọc sách.
Phụ lục bổ ích
Phần phụ lục của cuốn sách giới thiệu 100 đầu sách nên có trong tủ sách gia đình, cùng với thông tin về các thư viện công cộng, thư viện tư nhân, tủ sách gia đình trên cả nước. Điều này giúp bạn đọc có thêm nguồn tham khảo và lựa chọn sách phù hợp.
Đối tượng phù hợp
Cuốn sách "Xây Dựng Tủ Sách Gia Đình - Cùng Đọc Để Sống Hạnh Phúc Và Kiến Tạo Xã Hội Văn Minh" là tài liệu hữu ích cho:
Các gia đình muốn xây dựng tủ sách gia đình hiệu quả: Cuốn sách cung cấp những kiến thức và kỹ năng cần thiết để tạo dựng một tủ sách phong phú và phù hợp với nhu cầu của từng gia đình.
Những người muốn trở thành tác khuyến đọc: Cuốn sách chia sẻ những kinh nghiệm và phương pháp để phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng.
Những người đang tìm kiếm động lực và hướng dẫn để bắt đầu đọc sách: Cuốn sách là nguồn cảm hứng và lời khuyên bổ ích cho những ai muốn tạo dựng thói quen đọc sách và tận hưởng những lợi ích mà sách mang lại.
Review nội dung
"Xây Dựng Tủ Sách Gia Đình - Cùng Đọc Để Sống Hạnh Phúc Và Kiến Tạo Xã Hội Văn Minh" là một cuốn sách đầy đủ, thiết thực và đầy cảm hứng. Tác giả Nguyễn Quốc Vương đã mang đến một góc nhìn mới về vai trò quan trọng của việc đọc sách và tủ sách gia đình trong việc xây dựng hạnh phúc gia đình và phát triển xã hội. Với những lời khuyên hữu ích, những chia sẻ chân thành và những thông tin bổ ích, cuốn sách chắc chắn sẽ là nguồn cảm hứng và động lực để bạn đọc xây dựng một tủ sách gia đình phong phú, góp phần tạo nên một môi trường văn hóa đọc lành mạnh, phát triển cho gia đình và cộng đồng.
Đường Xa Nghĩ Về Giáo Dục Việt Nam
Cuốn sách nhỏ này là sự tập hợp những bài báo tôi công bố từ cuối năm 2017 tới nay. Có những bài được viết ra là để giải thích thêm hoặc trả lời các câu hỏi mà bạn đọc gửi đến sau khi họ đọc hai cuốn sách trên.
Trong khi quan sát hiện trạng giáo dục, lần tìm lại lịch sử nước nhà, so sánh với giáo dục Nhật Bản và tư duy về triết lý giáo dục, tôi đã nhìn nhận giáo dục như là một hoạt động rộng lớn với nhiều thực thể tham gia, được tiến hành trong cả ba không gian có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau: gia đình - nhà trường - xã hội. Từ việc phân tích các sự kiện giáo dục ở hiện tại, so sánh các sự kiện giáo dục trong lịch sử, tôi đưa ra những kiến giải và những tư tưởng của riêng mình.
Trong cuốn sách này, các bài viết sẽ được sắp xếp thành ba phần:
Phần 1: Giáo viên, chương trình và sách giáo khoa
Phần 2: Văn hóa trường học
Phần 3: Giáo dục đời sống
Cách sắp xếp như trên chỉ có tính chất tương đối, chủ yếu để độc giả tiện theo dõi vì nhiều bài có nội dung chạm đến cả ba chủ thể, có thể xếp vào phần nào cũng được.
Sẽ có những độc giả khó tính nhận ra có sự rời rạc, thiếu liền mạch nhất quán trong kết cấu. Điều đó dễ hiểu vì mục tiêu ban đầu của tôi ban đầu khi viết không phải để in thành sách, nó đơn giản chỉ là những quan sát, suy ngẫm, ý tưởng về giáo dục tôi thu nhặt được trong quá trình hoạt động ở lĩnh vực văn hóa và giáo dục.
Lẽ tất nhiên, tôi không thể nào thỏa mãn với những kết quả nhỏ nhoi đó, sẽ có lúc tôi cần trình ra trước bạn đọc những chuyên khảo dày dặn và có hệ thống, ở đó mỗi một kết quả hay ý tưởng đã được công bố của tôi sẽ được đào sâu và xem xét từ nhiều khía cạnh. Để đi đến đó còn cả một quãng đường xa. Tôi tự biết bản thân phải tự nỗ lực không ngừng ở những việc nhỏ cần mẫn hàng ngày.
Dẫu vậy, bằng tấm lòng thành thực, tôi hi vọng cuốn sách nhỏ này sẽ giúp cho bạn đọc quan tâm tới giáo dục trên cả nước có thêm thông tin tham khảo để suy ngẫm về giáo dục nước nhà.
Là một người quan tâm đến giáo dục và mong muốn đóng góp vào công cuộc cải cách giáo dục ở Việt Nam, trong thời gian du học tại Nhật Bản, nhà nghiên cứu Nguyễn Quốc Vương đã tìm tòi nghiên cứu và có nhiều bài báo, công trình nghiên cứu có tính phản biện và đưa ra các phân tích mang tích độc lập về các vấn đề nóng của giáo dục Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả nhận thấy hầu hết các vấn đề của giáo dục Việt Nam hiện nay còn đang tranh cãi thì ở Nhật đã gặp phải, cũng như đã giải quyết được cách đây hơn 70 năm. Và để có được một xã hội Nhật Bản thịnh vượng như ngày nay, Nhật Bản đã phải trải qua công cuộc cải cách giáo dục một cách toàn diện, thậm chí chấp nhận xóa bỏ toàn bộ nền giáo dục trước đó. Chương trình giáo dục phổ thông Nhật Bản đã đổi mới thành công bởi các nhà quản lý giáo dục Nhật Bản: Chú trọng “cải cách giáo dục từ dưới lên”; coi Chương trình chỉ là tham khảo; Các môn học và phương pháp kiểm tra, đánh giá mới hoàn toàn mới so với trước.
“ Sau khi chính quyền Minh Trị được thiết lập năm 1868, trong vòng 10 năm đầu, quá trình cận đại hóa theo hướng “khai hóa văn minh” được xúc tiến mạnh mẽ. Cải cách giáo dục đã đi từ các thay đổi lẻ tẻ ở địa phương trở thành chính sách quốc gia. Phương châm của chính phủ Minh Trị lúc đó là đẩy mạnh cải cách giáo dục để cận đại hóa đất nước, du nhập nhanh và rộng các giá trị văn minh phương Tây. Để “nhập khẩu” văn minh, chính phủ Minh Trị đã cử học sinh ra nước ngoài du học và tích cực sử dụng người phương Tây trong vai trò là các chuyên gia, cố vấn.”
“Ở Nhật Bản trước Chiến tranh thế giới thứ hai, “triết lý giáo dục” không được coi trọng hay nói khác đi là không được ý thức đầy đủ. Nền giáo dục khi ấy được vận hành chủ yếu bởi các nguyên lý bất biến được xác định bởi “Học chế” và “Sắc chỉ giáo dục” do Thiên hoàng Minh Trị ban hành. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, dựa trên nền tảng của Hiến pháp 1946, triết lý giáo dục mới được xây dựng. Triết lý này được ghi rõ trong các bộ Luật về giáo dục như: Luật giáo dục cơ bản, Luật giáo dục nhà trường, Luật về Ủy ban giáo dục…Trong các bản Hướng dẫn học tập phần đầu tiên bao giờ cũng là phần trích dẫn những nội dung quan trọng nhất của Luật giáo dục cơ bản, Luật giáo dục trường học và Quy tắc thực thi Luật giáo dục trường học. Ở đó, triết lý giáo dục được trang trọng đặt ở chương đầu tiên “Mục đích và triết lý giáo dục”. Triết lý giáo dục mới này được thể hiện tập trung ở mục tiêu giáo dục nên người công dân có đầy đủ tri thức, phẩm chất, năng lực phù hợp với xã hội dân chủ, hòa bình, tôn trọng con người.”
Từ việc so sánh về giáo dục Việt Nam và Nhật Bản, tác giá đưa ra kết luận: Ở Việt Nam cho đến nay “triết lý giáo dục” vẫn là một thuật ngữ chuyên môn tương đối mới và xa lạ. Trong các văn bản quản lý giáo dục và thậm chí trong Hiến pháp, Luật giáo dục cũng không hề thấy xuất hiện thuật ngữ này mặc dù đối với một nền giáo dục “Triết lý giáo dục” là vô cùng quan trọng. Vì vậy, về lâu dài muốn xây dựng được nền giáo dục dân tộc, hiện đại và hội nhập quốc tế thì chắc chắn vấn đề “triết lý giáo dục” cần phải được giải quyết thấu đáo. Giáo dục Việt Nam cần đến một triết lý thu nhận được sự đồng thuận của đông đảo nhân dân và phù hợp với những giá trị phổ quát của nhân loại. Một khi có triết lý giáo dục rõ ràng, cải cách giáo dục sẽ diễn ra thuận lợi tạo nên những thay đổi tích cực.
Tác giả khẳng định, nếu không có một Triết lý giáo dục rõ ràng thì dù có nhập khẩu các chương trình giáo dục nổi tiếng, đã thành công trên thế giới, hay việc tìm tới những phương pháp giảng dạy tối ưu càng khiến giáo dục Việt Nam rơi vào tình trạng rối như bế tắc và có những biến tướng khó có thể chấp nhận.
MỤC LỤC
PHẦN I.
GIÁO DỤC VIỆT NAM VÀ GIÁO DỤC NHẬT BẢN
Giáo dục Việt Nam học gì từ Nhật Bản?
Cải cách giáo dục từ dưới lên
“Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông như bài thơ viết vội
Một chương trình-nhiều bộ sách giáo khoa: Những điều kiện đủ
Ý nghĩa của cơ chế “một chương trình, nhiều sách giáo khoa”
Khi người thầy nhầm lẫn “quyền lực” với “quyền uy”
Lớp trưởng là chủ tịch: Đừng “chế Mercedes thành công nông”!
Tại sao không dạy nghề mà chỉ là “định hướng nghề nghiệp”?
Tại sao không phải là ‘con đại gia đỗ thủ khoa’?
Chỉ vì chữ “tác” thành chữ “tộ”
Nhật Bản cải cách giáo dục như thế nào?
Chương trình giáo dục phổ thông Nhật Bản-bước ngoặt về tư duy giáo dục
Chương trình giáo dục phổ thông Nhật Bản được tạo ra như thế nào?
Yếu tố tạo ra thành công của cải cách giáo dục Nhật Bản
Đánh giá học sinh ở Nhật khác gì ở Việt Nam?
Du học Nhật Bản: không có chỗ cho người mơ mộng
Sau 1945, học sinh Nhật Bản đã học những “kĩ năng sống” nào?
Từ chuyện tổ chim ngẫm về giáo dục Tính “địa phương” trong giáo dục phổ thông – một bài học sâu sắc.
PHẦN II.
GIÁO DỤC LỊCH SỬ Ở VIỆT NAM VÀ NHẬT BẢN
Hướng đi nào cho giáo dục lịch sử ở Việt Nam?
"Đơn thuốc nào cho căn bệnh “giáo dục lịch sử”
Đối thoại hậu bài viết “Đơn thuốc cho giáo dục lịch sử”
Học tập nước ngoài, nhưng cẩn thận mắc ‘bệnh hình thức’
Khi học sinh không chọn môn Sử thi tốt nghiệp phổ thông trung học
Khám phá, giải mã quá khứ qua lịch sử
Môn Sử ‘biến mất’ và thách thức chưa từng có của Bộ Giáo dục
Lịch sử phải là môn “khoa học” trước khi thành môn “bắt buộc”
Dạy học tích hợp có mâu thuẫn với sự độc lập của môn Lịch Sử?
Thư một học sinh gửi người lớn: Không chọn thi môn Sử có gì là sai?
Thử phát triển “nhận thức lịch sử khoa học” và “phẩm chất công dân” cho học sinh lớp 8 qua thực tiễn dạy học lịch sử ở Trường THCS và THPT Nguyễn Tất Thành.
Cải cách giáo dục lịch sử trong trường phổ thông Nhật Bản thời hậu chiến (1945-1950) và những bài học kinh nghiệm có thể vận dụng vào Việt Nam
Tìm hiểu về ba hình thái giáo dục lịch sử trong trường phổ thông Nhật Bản từ sau 1945
Sách giáo khoa lịch sử Nhật Bản: Nơi học sinh lớp 6 có thể là nhà sử học
Tác giả:
Nguyễn Quốc Vương đã từng làm giảng viên Khoa Lịch sử - Trường Đại học sư phạm Hà Nội.
Làm nghiên cứu sinh tại Nhật Bản, anh tâm huyết với các vấn đề giáo dục của nước nhà và có nhiều bài viết, dịch về các vấn đề liên quan đến giáo dục, cải cách giáo dục và so sánh giáo dục Việt Nam và Nhật Bản.
Hiện nay anh là nhà nhà phê bình tự do và tập trung cho các hoạt động khuyến đọc.
Các tác phẩm đã dịch:
Cải cách giáo dục Nhật Bản - Ozaki Mugen, NXB Từ điển Bách Khoa và Thaihabooks, 2014
Sổ tay giáo dục gia đình Nhật Bản, Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ Nhật Bản, NXB Phụ nữ và Công ty cổ phần Sách Truyền thông Quảng Văn, 2016
Hướng dẫn học tập môn xã hội, tập 1, Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học Công nghệ Nhật Bản, NXB Đại học Sư Phạm, 2016
Hướng dẫn học tập môn xã hội, tập 2, Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học Công nghệ Nhật Bản, NXB Đại học Sư Phạm, 2017
Tác phẩm sáng tác:
Điều bí mật trong vườn (thơ), NXB Văn học, 2015.
Giáo dục Việt Nam học gì từ Nhật Bản, NXB Phụ nữ, 2016
Môn Sử không chán như em tưởng, NXB Phụ nữ, 2017
Mùi của cố hương, NXB Phụ nữ, 2017
Đi tìm triết lý giáo dục
Nhà xuất bản Phụ nữ xin trân trọng giới thiệu.
Trích một số bài viết trong sách:
“70 năm sau ngày độc lập Việt Nam lại đứng trước những thử thách và lựa chọn quan trọng trong cuộc cải cách giáo dục lần thứ tư.
Hơn lúc nào hết giáo dục đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của người dân cả nước. Ở đó, người dân đủ mọi thành phần thông qua truyền thông đại chúng, mạng xã hội và các diễn đàn khác, đang hàng ngày thể hiện sự lo lắng trước hiện trạng giáo dục và kỳ vọng vào cải cách. Nỗi lo lắng và niềm hy vọng ấy của người dân là dễ hiểu. Đơn giản vì giáo dục có tác động trực tiếp đến mọi gia đình trong xã hội và quyết định đến sự hưng vong của dân tộc. Cải cách thực sự và triệt để là phương thức hữu hiệu để giải quyết các vấn đề đang ngày một trở nên trầm trọng trong nền giáo dục của nước ta hiện nay. Tuy nhiên, để đi tới thành công cải cách giáo dục phải đáp ứng được nguyện vọng của người dân và phù hợp với xu hướng chung của giáo dục thế giới trong thời đại toàn cầu hóa. Vì thế, trong quá trình thiết kế và thực thi cải cách giáo dục, sẽ có hai công việc cần phải được tiến hành:
Thứ nhất là xem xét lại toàn bộ nền giáo dục từ trước đến nay để phân tích, tìm ra những ưu điểm cần lưu giữ, phát triển và những vấn đề cần phải giải quyết.
Cả hai công việc đó đều cần đến tư duy và thao tác so sánh. Giáo dục Việt Nam chỉ có thể được nhận thức một cách khách quan, toàn diện và sâu sắc khi nó được tham chiếu, so sánh với giáo dục ở các nước khác. Với tư cách là một người làm giáo dục và muốn đóng góp vào công cuộc cải cách giáo dục ở Việt Nam, tôi đã sử dụng tư duy so sánh nói trên để nhận thức về giáo dục Việt Nam. Những bài viết được tập hợp trong cuốn sách có tên “Giáo dục Việt Nam học gì từ Nhật Bản?” này là kết quả của việc so sánh giáo dục Việt Nam và Nhật Bản được tôi tiến hành từ năm 2009 đến nay.
Hy vọng, thông tin từ các bài viết trong cuốn sách nhỏ này sẽ có ích cho bạn đọc trong quá trình nhận thức về giáo dục và góp phần thúc đẩy cải cách giáo dục ở Việt Nam sớm thành công.”
Nguyễn Quốc Vương
Trích Lời nói đầu “Giáo dục Việt Nam học gì từ Nhật Bản
Cải cách giáo dục từ dưới lên
Cải cách giáo dục, dưới góc độ lịch sử, có thể được chia làm hai loại: cải cách từ trên xuống và cải cách từ dưới lên. Cải cách giáo dục từ trên xuống được hiểu là cuộc cải cách xuất phát từ phía nhà nước - các cơ quan quản lý giáo dục, đứng đầu là Bộ Giáo dục và Đào tạo, thông qua các chính sách và chỉ đạo có tính chất hành chính, bắt buộc. Trái lại, cải cách giáo dục từ dưới lên được tiến hành bởi các giáo viên ở các trường học và bằng các “thực tiễn giáo dục”.
“Thực tiễn giáo dục” là gì?
Có thể hiểu một cách đơn giản rằng “thực tiễn giáo dục” là tất cả những gì giáo viên thiết kế, tiến hành trong một khoảng thời gian ngắn như một vài tiết học khi thực hiện một chủ đề học tập, trong một học kỳ, một năm học hoặc cũng có thể là cả quãng đời dạy học, và thu được ở hiện trường giáo dục. Các thực tiễn giáo dục là kết quả tự chủ và sáng tạo của giáo viên trên cơ sở nghiên cứu mục tiêu giáo dục, chương trình khung, sách giáo khoa, tình hình thực tế của nhà trường, học sinh. Thực tiễn giáo dục có thể không hoàn toàn trùng khớp hay chỉ là sự minh họa, diễn giải những gì được trình bày trong sách giáo khoa, nó là sản phẩm của sự sáng tạo mang đậm dấu ấn của giáo viên, của ngôi trường họ đang dạy học. Chính vì vậy, thực tiễn giáo dục thường được gọi bằng cái tên gắn liền với ngôi trường hoặc giáo viên sáng tạo ra nó.
Vai trò của “thực tiễn giáo dục”
Có thể coi thực tiễn giáo dục là một con đường đi giữa những chỉ đạo về nội dung và phương pháp giáo dục của cơ quan hành chính giáo dục và tình hình thực tế trường học nhằm đi đến cái đích là “mục tiêu giáo dục”. Đây là nơi thể hiện tài năng nghề nghiệp của giáo viên. Khi thiết kế và thực thi thực tiễn giáo dục, giáo viên phải xử lý một cách khéo léo nhất mối quan hệ giữa chương trình, sách giáo khoa, mục tiêu giáo dục, yêu cầu thực tế của xã hội, nguyện vọng của phụ huynh, nhu cầu truy tìm chân lý nội tại của học sinh và tình hình thực tế của nhà trường, địa phương.
Bằng việc thiết kế và thực hiện các thực tiễn giáo dục có tính độc lập tương đối và mang tính sáng tạo cao, các giáo viên sẽ tạo ra sự thay đổi tích cực ở ngay hiện trường giáo dục. Hàng ngàn, hàng vạn thực tiễn giáo dục như vậy khi hợp lại, với hiệu quả cộng hưởng, sẽ làm nên cuộc “cải cách giáo dục từ dưới lên”. Thực tế lịch sử đã chứng minh, các cuộc cải cách giáo dục từ trên xuống cho dù ban đầu có quy mô đến bao nhiêu đi nữa thì về sau nó cũng dần dần nguội lạnh. Vì vậy, các cuộc cải cách giáo dục từ dưới lên với vô vàn các thực tiễn giáo dục vừa có tác dụng thúc đẩy, duy trì vừa có tác dụng điều chỉnh cuộc cải cách giáo dục từ trên xuống. Nói cách khác, trong cuộc cải cách giáo dục, giáo viên sẽ không chỉ đóng vai trò như một người thợ, một người thừa hành thuần túy mà họ, bằng lao động nghề nghiệp giàu tính chủ động, sáng tạo, thấm đẫm tinh thần tự do, sẽ dẫn dắt giáo dục đi đúng hướng và thực hiện mục tiêu giáo dục.
Ở phạm vi hẹp hơn, các thực tiễn giáo dục còn tạo cơ hội cho các giáo viên trong trường học và các đồng nghiệp xa gần trao đổi chuyên môn thực sự. Thực tiễn giáo dục được ghi chép, tổng kết lại cũng sẽ là những tư liệu quý phục vụ công tác nghiên cứu.
“Thực tiễn giáo dục” được ghi lại như thế nào?
Tiến hành các thực tiễn giáo dục là công việc thường xuyên của giáo viên. Đó là sự tìm tòi và sáng tạo không ngừng. Tuy nhiên, công việc của giáo viên không chỉ dừng lại ở việc thiết kế và tiến hành các thực tiễn giáo dục. Giáo viên cần ghi lại, tổng kết các thực tiễn giáo dục của bản thân và công bố chúng. Thông thường, một thực tiễn giáo dục ở quy mô nhỏ (thường là một chủ đề học tập với dung lượng từ ba đến bảy tiết học) được ghi lại với cấu trúc sau:
+ Tên “thực tiễn giáo dục”: Có thể trùng với tên của chủ đề học tập hoặc tên riêng thể hiện mục tiêu, phương châm giáo dục của giáo viên.
+ Thời gian-địa điểm: Ghi rõ ràng, chính xác thời gian bắt đầu, kết thúc, địa điểm tiến hành thực tiễn (trường, địa phương, lớp).
+ Đối tượng: Học sinh lớp mấy, số lượng, đặc điểm học sinh.
+ “Giáo tài”: Tài liệu dùng để giảng dạy và “chuyển hóa” nội dung giáo dục thành nội dung học tập của học sinh.
+ Mục tiêu của “thực tiễn” (chủ đề học tập): Về tri thức (hiểu biết), kĩ năng, mối quan tâm, hứng thú, thái độ…
+ Kế hoạch chỉ đạo (giáo án): Bao gồm các chỉ đạo cụ thể của giáo viên và hoạt động học tập của học sinh.
+ Quá trình thực hiện: Ghi lại khách quan, trung thực và đầy đủ tối đa về diễn tiến của thực tiễn trong thực tế, chú trọng các phát ngôn và hành động của giáo viên và học sinh.
+ Hồ sơ giờ học: Tập hợp các cảm tưởng, bài viết, bài kiểm tra, ghi chép của học sinh, sản phẩm của học sinh tạo ra trong thực tiễn…
+ Tổng kết thực tiễn: Giáo viên tự đánh giá về thực tiễn trong tham chiếu với mục tiêu đặt ra và những điểm cần lưu ý rút ra cho bản thân.
+ Phụ lục: Tài liệu sử dụng hoặc liên quan đến thực tiễn. Các thực tiễn giáo dục khi đã được “văn bản hóa” như trên có thể được trao đổi thông qua các buổi thuyết trình, thảo luận chuyên môn hoặc công bố trên các tập san, tạp chí. Gần đây, với sự trợ giúp của các phương tiện kỹ thuật số, giáo viên có thể ghi lại thực tiễn giáo dục bằng hình ảnh.
Cơ hội tiến hành các thực tiễn giáo dục ở Việt Nam
Ở Việt Nam, do nhiều yếu tố trong đó có sự tồn tại quá lâu của cơ chế “Sách giáo khoa quốc định” (một chương trình - một sách giáo khoa), các thực tiễn giáo dục với ý nghĩa như vừa phân tích ở trên gần như không tồn tại. Sự giống nhau từ nội dung, phương pháp đến tài liệu giảng dạy, ngày giờ tiến hành của các bài học trên cả nước là biểu hiện cụ thể cho hiện thực đó. Nhận thức của giáo viên về thực tiễn giáo dục và vai trò chủ động, sáng tạo khi tiến hành các thực tiễn giáo dục cũng là một vấn đề đang được đặt ra.
Tuy nhiên, bằng việc chấp nhận cơ chế “một chương trình - nhiều sách giáo khoa” trong cuộc cải cách giáo dục đang tiến hành, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tạo điều kiện thuận lợi cho các giáo viên tiến hành các thực tiễn giáo dục. Đây là “cơ hội vàng” cho các giáo viên ở hiện trường giáo dục thực thi và tổng kết các thực tiễn. Các thực tiễn giáo dục sẽ trở thành chủ đề của các buổi sinh hoạt chuyên môn hoặc được công bố trên các tạp chí có liên quan. Các blog cá nhân của giáo viên hay website của các trường phổ thông cũng có thể là nơi công bố các thực tiễn giáo dục. Sự phong phú của các thực tiễn giáo dục sẽ tạo ra sinh khí cho các trường học và đem đến niềm vui cho giáo viên và học sinh. Bằng việc tiến hành hàng ngàn, hàng vạn các thực tiễn giáo dục trên cả nước, cải cách giáo dục từ dưới lên nhất định sẽ thành công, góp phần tạo ra những người công dân mơ ước có tư duy độc lập và tinh thần tự do.
"Đi tìm triết lý giáo dục Việt Nam" có thể coi là sự tiếp nối của " Giáo dục Việt Nam học gì từ Nhật Bản" (NXB Phụ nữ, 2016).
"Đi tìm triết lý giáo dục Việt Nam" là tập hợp những bài viết của tôi về giáo dục Việt Nam và những vấn đề liên quan đến giáo dục trong khoảng thời gian từ tháng 4 năm 2014 đến nay. Phần lớn trong khoảng thời gian đó tôi học ở Nhật Bản. Khoảng cách về địa lý khiến tôi gặp khó khăn trong việc tiếp cận, quan sát trực tiếp hiện trường giáo dục Việt Nam, nhưng nó cũng đem lại cho tôi một lợi thế: tôi có thể quan sát và suy ngẫm về giáo dục nước nhà từ bên ngoài, bằng con mắt của " người ngoài cuộc" và tư duy so sánh.
Những bài viết về giáo dục Việt Nam trong cuốn sách này là kết quả của cái nhìn và suy ngẫm ấy.
Cho dù chúng được viết ra ở nhiều thời điểm khác nhau, có những bài được viết theo dòng thời sự, nhưng xét cho cùng, ở tất cả những bài viết ấy, khi phân tích và lý giải nguyên nhân của khùng hoảng giáo dục và gợi ý cách thức cải cách của tôi đều hồi quy chúng về môt điểm là " triết lý giáo dục". Nói cách khác " triết lý giái dục" đã trở thành "cơ cấu" quan trọng số một và chủ yếu để tôi sử dụng khi phân tích và lý giải các vấn đề của giáo dục Việt Nam.
Trong quá trình tìm hiểu về giáo dục của Nhật Bản, sự hiện diện của "thuật ngữ triết lý giáo dục" trong các văn bản pháp luật liên quan đến giáo dục như " luật giáo dục cơ bản( công bố năm 1947, sửa đổi năm 2006) và sự phổ biến của nó trong xã hội Nhật Bản đã giúp tôi củng cố niềm tin khi sử dụng "cơ cấu" ấy.
Tất nhiên, do cuốn sách là sự tập hợp của các bài viết được công bố trong nhiều thời điểm khác nhau với nội dung trải rộng , cho nên nó sẽ không tránh khỏi sự lỏng lẻo về cấu trúc và khi đọc nó, bạn đọc sẽ có cảm giác không liền mạch hoặc tản mạn. Sự phân chia nội dung cuốn sách thành ba phần vì thế cũng chỉ mang tính chất tương đối.
Những bạn đọc tâm huyết với giáo dục chắc chắn sẽ đòi hỏi tác giả có sự khảo cứu sâu hơn, hệ thống hơn về "triết lý giáo dục" của Việt Nam trong tương quan so sánh với các nước trong khu vực và thế giới. Đấy là một đòi hỏi hợp lí. Hi vọng trong tương lai, tôi sẽ có dịp trình bày về nội dung này trong 1 cuốn sách mới với tư cách là một công trình nghiên cứu hệ thống hơn.
Cho dù chưa thể thỏa mãn với những gì được trình bày trong cuốn sách này, tôi vẫn tha thiết hi vọng " Đi tìm triết lý giáo dục Việt Nam" sẽ đem lại cho bạn đọc những thông tin hữu ích hoặc gợi ra ở các bạn những suy ngẫm về giáo dục nước nhà.
Hà Nội, tháng 9/2017
Môn Sử Không Chán Như Em Tưởng
Từ những năm 2012 – 2014, bằng phương pháp giáo dục không đặt trọng tâm vào truyền đạt tri thức lịch sử cho học sinh mà tập trong vào việc hướng dẫn học sinh “làm nhà sử học” để phát hiện vấn đề, tìm kiếm, giải mã tư liệu, từ đó khám phá, đọc hiểu quá khứ, suy ngẫm về quá khứ để tham chiếu và giải thích hiện tại, thầy giáo Nguyễn Quốc Vương đã có được gần một nghìn bài viết của học sinh về lịch sử, dưới những góc nhìn khác nhau.
“Môn Sử không chán như em tưởng” (NXB Phụ nữ in và phát hành vào tháng 5/2017) là cuốn sách tập hợp những bài viết (có chọn lọc) trong gần một nghìn bài kiểm tra đó.
Từ thực tiễn giáo dục và các bài viết của các em học sinh, thầy Nguyễn Quốc Vương đã chứng minh: học sinh không chán học Sử mà do phong pháp và chương trình học cứng nhắc khiến các em không còn hứng thú.
Điều Bí Mật Trong Vườn - Nơi Tuổi Thơ Gặp Gỡ Nghệ Thuật
Giới Thiệu Về Tập Thơ
"Điều Bí Mật Trong Vườn" là tập thơ của tác giả Nguyễn Quốc Vương, một người dành trọn tâm huyết cho giáo dục và nghiên cứu giáo dục, đồng thời là một tâm hồn yêu thơ. Tập thơ được viết khi tác giả mới 18 đôi mươi, khi cảm xúc còn hồn nhiên và trong trẻo nhất. Lần in này, tập thơ tuyển chọn 15 bài thơ chủ yếu là những bài thơ thiếu nhi về kỉ niệm tuổi thơ của tác giả.
Điểm Nhấn Của Tập Thơ
Minh họa độc đáo: Họa sĩ Trần Quốc Anh - một họa sĩ được biết đến qua những cuốn Picture books kiểu mới, hoặc làm mới lại những tác phẩm đã cũ - đã vẽ minh họa cho tập thơ. Dưới nét vẽ của họa sĩ, mỗi bài thơ hiện ra như một bức tranh vô cùng sinh động với nhiều gam màu khác lạ. Đến với tập thơ, độc giả như được tham gia chuyến phiêu lưu cùng còn chữ và sắc màu tác giả và họa sĩ, từ đó mở ra cánh cửa vượt thời gian trở về với tuổi kí ức tuổi thơ của chính mình.
Nội dung giàu cảm xúc: Tập thơ là một kho báu chứa đựng những kỉ niệm tuổi thơ hồn nhiên, trong trẻo của tác giả. Những bài thơ được viết từ chính những cảm xúc chân thật, những khoảnh khắc đẹp đẽ của tuổi thơ ở nông thôn.
Giá trị giáo dục: Tập thơ còn phù hợp giới thiệu trong tủ sách nhà trường và là tư liệu để hướng dẫn học sinh tập làm thơ 5 chữ, thơ lục bát và thơ tự do.
Lời Giới Thiệu Của Tác Giả
"Tính đến thời điểm hiện tại, tôi đã dịch và viết gần 100 cuốn sách được xuất bản ở Việt Nam nhưng Điều bí mật trong vườn với minh họa màu vẫn là cuốn sách tôi chờ mong nhất. Cuốn sách này với tôi, chứa đựng rất nhiều kỉ niệm. Mỗi câu, mỗi bài trong đó đều là một bầu trời tuổi thơ." - Nguyễn Quốc Vương
Tác giả chia sẻ về quá trình sáng tác những bài thơ trong tập "Điều Bí Mật Trong Vườn" với một tâm hồn đầy ắp kỉ niệm. Những câu thơ lóe lên trong tác giả như những tia chớp khi còn nhỏ, được ghi lại vội vàng và sửa lại ngay trong đầu trước khi ghi vào sổ tay. Tác giả cũng bộc bạch về những đổi thay của quê hương, nơi chứa đựng những kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ.
Lời Giới Thiệu Của Họa Sĩ
"Với tôi Điều bí mật trong vườn vừa là hành trình tìm lại chính mình vừa là mong muốn bứt phá vượt khỏi giới hạn của những quy tắc. Tôi muốn tạo ra những đường nét màu sắc tươi sáng, mơ mộng của tuổi thơ, nhưng vẫn luôn tò mò, háo hức được thử nghiệm nhiều hơn nữa những phong cách mới lạ." - Trần Quốc Anh
Họa sĩ Trần Quốc Anh chia sẻ mong muốn của mình khi thực hiện minh họa cho tập thơ. Ông mong muốn tạo ra những hình ảnh đẹp, rực rỡ, giúp người đọc cảm nhận được cái hay cái đẹp của con chữ, vần thơ, đồng thời tự do thả hồn mình vào một thế giới riêng – thế giới của trí tưởng tượng rực rỡ, nơi không bị giới hạn bởi không gian hay những hình dung thông thường.
Review Nội Dung Sách
"Điều Bí Mật Trong Vườn" là một tập thơ đầy cảm xúc, đưa người đọc trở về với tuổi thơ hồn nhiên, trong trẻo. Những câu thơ mộc mạc, giản dị, nhưng ẩn chứa những giá trị sâu sắc về tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước, tình bạn đẹp đẽ.
Minh họa của họa sĩ Trần Quốc Anh là điểm nhấn đặc biệt của tập thơ. Nét vẽ tươi sáng, rực rỡ, đầy màu sắc, tạo nên một thế giới tuổi thơ sinh động, hấp dẫn, khiến người đọc không chỉ say sưa với những vần thơ mà còn được đắm mình trong những khung cảnh thơ mộng, đẹp như mơ.
"Điều Bí Mật Trong Vườn" là một món quà ý nghĩa dành cho các bạn nhỏ, giúp các bạn khám phá vẻ đẹp của ngôn ngữ, khơi gợi trí tưởng tượng và tình yêu với nghệ thuật. Tập thơ cũng là món quà dành cho người lớn, giúp họ tìm lại những kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ và níu giữ những giá trị tinh thần thiêng liêng.
Nước Nhật Nhìn Từ Những Thứ Bình Thường
1. Tác phẩm
Gồm 26 bài viết ghi lại những trải nghiệm và cảm nghĩ về nước Nhật, người Nhật trong 8 năm tác giả sống ở Nhật. Với góc nhìn từ những thứ bình thường ở Nhật: đường sá, nhà ga tàu điện ngầm, những cánh rừng trong thành phố, những trường mầm non thân thiện..., tác giả phân tích lý do vì sao Nước Nhật từ một đất nước chiến bại có thể có bước tiến trở thành nước Nhật thần kì như ngày này đó chính là nỗ lực thay đổi từ những thứ bình thường nhỏ bé. Về trách nhiệm công dân và tinh thần tự nhiệm của Người Nhật trong việc kiến tạo xã hội văn minh.
Nhiều người nước ngoài nghĩ những chuyện như: Nhà ga vẫn hoạt động chỉ để phục vụ một nữ sinh: Chủ cửa hàng quỳ rạp xin lỗi khách hàng; Nghệ sĩ trở thành nghị sĩ; Người Nhật bình thản ứng phó trước thảm họa động đất, sóng thần... là những việc phi thường. Nhưng ở Nhật đó là những chuyện hết sức bình thường của cuộc sống hối hả thường ngày. Người Nhật không thích nói về anh hùng và ngượng ngùng khi bình luận về lòng yêu nước. Thay vào đó họ hay lo lắng về bổn phận và danh dự. Với họ, làm người nông dân bình thường nuôi trồng nên nông sản ngon và sạch, làm người lái xe coi trọng sự an toàn và lịch sự với hành khách, làm giáo viên bình thường để học sinh cảm thấy hạnh phúc trong quãng thời gian ở trường… là bổn phận được coi trọng.
Nhật hơn các nước xung quanh cũng là ở những thứ bình thường phục vụ thiết thực cho đời sống người dân hằng ngày. Đương nhiên những thứ ấy không tự nhiên mà có, đó là kết quả của những cố gắng phi thường của một dân tộc từng bị bại trận và chiếm đóng..
2. Tác giả:
Nguyễn Quốc Vương – sinh năm 1982 tại Bắc Giang, tốt nghiệp ngành Sư phạm Lịch sử tại Đại học Sư phạm Hà Nội năm 2004 và đã có 8 năm học tập, nghiên cứu về Giáo dục Lịch sử tại Nhật Bản. Dành phần lớn thời gian cho công việc viết sách và dịch thuật, đến nay anh đã có hơn 70 đầu sách dịch và sách viết về nhiều lĩnh vực như: lịch sử học, văn hóa đọc, giáo dục trường học – được xuất bản. Đồng thời, anh còn là diễn giả sôi nổi ở lĩnh vực khuyến đọc tại Việt Nam.
Đọc Sách Và Con Đường Gian Nan Vạn Dặm - Tự Sự Về Giáo Dục Và Văn Hóa Đọc Của “Một Người Bán Sách Rong”
“Đọc sách và con đười gian nan vạn dặm” là những trải nghiệm, suy tư, trăn trở của tác giả về thực trạng giáo dục và văn hóa đọc ở Việt Nam. Bằng những trải nghiệm của cá nhân, cũng như bằng những nghiên cứu, khảo luận và quan sát của cá nhân, tác giả mong muốn có thể chia sẻ và được đồng hành với phát triển văn hóa đọc cũng như đóng góp cho sự thay đổi giáo dục nước nhà. Cuốn sách gồm nhiều bài viết là những bài phát biểu tại các buổi nói chuyện về sách, giáo dục hay những phỏng vấn báo chí thể hiện sự dấn thân và tâm huyết của tác giả đối với sự phát triển văn hóa đọc cũng như thay đổi nhận thức, tư duy giáo dục.
Trong cuốn sách này tác giả cũng công bố bản dịch hoàn chỉnh các văn bản luật, quy định của Nhật Bản liên quan tới tổ chức thư viện, khuyến đọc và phục hưng văn hóa đọc. Cùng với hai bài khảo sát thực trạng đọc sách tại Nhật Bản, hệ thống văn bản này cung cấp một tham chiếu độc đáo đối với Việt Nam hiện nay trong nỗ lực cải thiện và nâng cao dân trí nói chung thông qua khuyến đọc. Vì vậy, bên cạnh việc truyền cảm hứng đọc sách, cuốn sách còn là tài liệu tham khảo hữu ích cho quá trình phát triển văn hóa đọc tại Việt Nam.
“Đọc, ban đầu sẽ là việc nhàm chán với những người chưa quen. Họ có thể mỏi tay, mỏi cổ, mỏi lưng, buồn ngủ hay những gì đang đọc chỉ lướt qua bề ngoài mà không tác động được vào suy nghĩ, cảm xúc của họ”. Vì vậy, bằng những trải nghiệm cá nhân cũng như dấn thân với văn hóa đọc, Nguyễn Quốc Vương hy vọng cuốn sách sẽ góp phần giúp con đường phát triển văn hóa đọc bớt gian nan.
Nguyễn Quốc Vương khẳng định “Đọc sách là một hình thức học tập mở, có vai trò to lớn và diễn tiến suốt cả đời người, đọc sách không chỉ giúp chúng ta bổ sung kiến thức, bồi dưỡng trí tuệ, không chỉ giàu có về vật chất mà còn giàu có về tâm hồn. Tác giả khẳng định: “Có sức mạnh nội tâm con người sẽ không sợ hãi trước các thách thức từ thực tế. Vai trò của đọc sách đối với giáo dục gia đình chính là ở chỗ ấy”.
“Dân chúng biết đọc, ham đọc, có thói quen đọc, sách vở được in ra và bán rộng rãi, dễ dàng là một điều kiện tuyệt vời để truyền bá văn minh, thức tỉnh quốc dân và thay đổi các thói quen tư duy, lề lối cũ. Nếu không có điều kiện đó nước Nhật chưa chắc đã thành công trong thời Minh Trị, cho dù bộ phận tinh hoa và nắm giữ quyền lực chính trị khi đó có “anh minh, sáng suốt” thế nào đi chăng nữa”.
“Thông qua sự tiến bộ của cá nhân để đạt được sự tiến bộ về xã hội là một mệnh đề ngày càng được thực tiễn lịch sử chứng minh là đúng đắn và có sức hấp dẫn. Khi hiểu như vậy, ta sẽ thấy để kiến tạo một quốc gia, một cộng đồng văn minh không thể nào không dựa trên nền tảng văn hóa đọc với trụ cột là thói quen, năng lực đọc sách của từng cá nhân, từng công dân.”
Thông qua đọc sách việc mở mang trí thức để làm việc, lao động sản xuất mà đọc sách việc đọc sách còn mang đến cho con người sự tinh tế, lòng trắc ẩn, cảm xúc phong phú. Vì thế, “không phải ngẫu nhiên mà một trong những mục tiêu cơ bản của nhiều nền giáo dục là hình thành nên “tâm hồn phong phú ở trẻ em. Để có tâm hồn phong phú, con người phải được giáo dục. Đọc sách là một phương thức nằm trong đó”.
“Không phải ngẫu nhiên mà trong nhà tù ở các nước tiên tiến, người ta trong khi tước đi quyền công dân, vẫn đảm bảo quyền đọc sách của phạm nhân. Đơn giản vì họ tin đọc sách giúp phục hồi và duy trì nhân tính ... Tại trại tạm giam mà tôi thường đến phiên dịch, đầu hành lang nơi những người bước ra từ trại tạm giam khi được trả tự do sẽ đi qua, có đặt tấm biển lớn với dòng chữ viết kiểu thư pháp chân phương: Là người thì sẽ phạm sai lầm nhưng không để sai lầm lặp lại mới chính là người .Và ở ngay bên dưới là giá sách, tạp chí. Sự sắp đặt ấy là sắp đặt có tính biểu tượng và đầy ý nghĩa.”
Lịch sử của cả quốc gia lẫn cá nhân đều không tồn tại chữ “nếu”!
Tuy nhiên, việc suy ngẫm về từng thời điểm nào đó và đặt ra những giả thuyết “nếu…thì…” thật thú vị!
Ở trường học sinh sợ học môn lịch sử một phần là vì khi học các em có rất ít cơ hội, không gian và điều kiện đảm bảo để có thể tưởng tượng “nếu…thì…” hoặc suy ngẫm về các biến cố của quốc gia hoặc cuộc đời của các cá nhân ở nhiều góc độ khác nhau.
Lịch sử vì thế trở thành một thứ “lịch sử vô nhân xưng”, dễ rơi vào chung chung và trừu tượng. Để bù đắp nhược điểm cố hữu đó của môn lịch sử trong trường học (không chỉ là ở Việt Nam), học sinh cần đọc các sách về lịch sử ở bên ngoài.
Khi đến Nhật Bản du học tôi rất thích tìm hiểu về các nhân vật lịch sử Nhật Bản cũng vì lẽ đó. Đọc xong, tôi thường ghi chép tóm tắt lại rồi tìm cách đi tới những nơi mà nhân vật lịch sử đó đã sinh ra, lớn lên, hoạt động và qua đời. Mỗi trang sách, mỗi chuyến đi đó trên đất nhật đều làm cho tôi có những trải nghiệm thú vị và làm cho tôi phải suy ngẫm nhiều điều.
Cuốn sách nhỏ này ra đời từ những ghi chép vụn vặt và các chuyến đi đó. Nó không phải công trình nghiên cứu nên sẽ không có phát hiện gì mới về tư liệu hay đặc sắc gì trong kiến giải hoặc phương pháp. Tôi khi đó còn rất trẻ, chỉ đơn giản là kể lại những gì đã đọc được về nhân vật lịch sử mình yêu thích và thi thoảng xen vào đó những cảm nhận cá nhân của mình.
Con số 25 trong tên sách vì vậy còn có hàm nghĩa chỉ số tuổi của tôi khi đặt chân lên Nhật Bản. Tôi muốn ghi lại dấu ấn đó như một kỉ niệm riêng, sâu sắc trong cuộc đời.
Cho dù ban đầu tôi viết về 25 nhân vật lịch sử này không phải để xuất bản, tôi vẫn hi vọng cuốn sách được chính thức khai sinh sau hơn 10 năm ngủ yên trong máy tính này có thể giúp bạn đọc, đặc biệt là các em học sinh một thoáng hình dung về những con người cụ thể đã làm nên lịch sử Nhật Bản, từ đó cảm nhận được sự thú vị, hữu ích của việc học tập lịch sử ở nghĩa rộng nhất thông qua đọc sách, tham quan thực tế và suy ngẫm.
Nguyễn Quốc Vương
Trích Lời nói đầu “25 nhân vật lịch sử Nhật Bản”
25 nhân vật lịch sử Nhật Bản, gồm 25 bài viết về các nhân vật làm nên lịch sử Nhật Bản từ cổ chí kim trên nhiều các lĩnh vực khác nhau: chính trị, khoa học, nghệ thuật, giáo dục... Những nhân vật được tác giả tuyển chọn dù là thiên tài quân sự, chính trị gia xuất sắc hay bậc thầy trà đạo hoặc người họa sĩ cô đơn đều là những nhân vật trở thành biểu tượng của Nhật Bản.
Cuốn sách phù hợp với đối tượng độc giả quan tâm tới Nhật Bản và văn hóa Nhật Bản, bặc biệt phù hợp với học sinh yêu thích lịch sử nói chung và lịch sử Nhật Bản nói riêng.
Nhà xuất bản Phụ Nữ Việt Nam xin trân trọng giới thiệu.
MỤC LỤC
Himiko (khoảng thế kỉ III): Nữ hoàng bí ẩn của vương quốc Yamatai
Thái tử Shotoku (574-662): Nhà chính trị tài năng
Nhà sư Gyoki (668-749): Người có công đúc tượng Phật khổng lồ
Abeno Nakamaro (698-770): Lưu học sinh 35 năm không trở về Nhật Bản
Kukai (774-835): Nhà sư sáng lập môn phái Chân Ngôn
Abeno Nakamaro (698-770): Lưu học sinh 35 năm không trở về Nhật Bản
Kukai (774-835): Nhà sư sáng lập môn phái Chân Ngôn
Ashikaga Yoshimitsu (1358-1408): Tướng quân thống nhất Nam-Bắc triều
Senno Rikyu (1522-1591): Bậc thầy trà đạo
Oda Nobunaga (1534-1582): Thiên tài quân sự thời Chiến Quốc
Tokugawa Ieyasu (1543-1616 ): Người mở Mạc phủ Edo
Ninomya Kinjiro (1787-1856): Biểu tượng siêng năng của người Nhật Bản
Ando Hiroshige (1797-1858): Người họa sĩ cô đơn.
Koan(1810-1863): Nhà y học theo trường phái Hà Lan
Iwakura Tomomi (1825-1883): Chính trị gia xuất sắc thời Minh Trị
Saigo Takamori (1827-1877): Anh hùng trong cuộc Minh Trị duy tân
John Manjiro (1827-1898): Người bắc cây cầu giao lưu Nhật-Mĩ.
Yoshida Shoin (1830-1859): Người thầy mang chí lớn
Fukuzawa Yukichi (1835-1901): “Voltaire” của Nhật Bản
Itagaki Taisuke (1837-1919): Người khởi xướng phong trào Tự do dân quyền.
Mori Arinori (1847-1889): Bộ trưởng giáo dục đầu tiên trong Chính quyền Minh Trị.
Tsuda Umeko (1864-1929): Nhà giáo dục quan tâm tới phụ nữ
Yosano Akiko (1878-1942): Nữ thi sĩ của tình yêu và lòng dũng cảm
Taki Rentaro (1879-1903): Ngôi sao băng trên bầu trời âm nhạc
Ichikawa Fusae (1893-1981): Người suốt đời đấu tranh vì quyền lợi của phụ nữ
3000 ngày trên đất Nhật là tự truyện của tác giả Nguyễn Quốc Vương, anh ghi lại những gì ấn tượng và xúc động đối của mình trong những năm tháng du học ở Nhật.
Hoàn cảnh xuất thân con nhà nghèo, đông anh chị em việc Nguyễn Quốc Vương được giữ lại trường làm giảng viên Khoa Lịch sử - Trường đại học Sư Phạm Hà Nội và tiếp tục học lên cao ngay sau khi tốt nghiệp đại học (năm 2004), hẳn với nhiều người đó là điều đáng tự hào mở ra một tương lai sán lạn. Nhưng thời gian này cũng là lúc anh băn khoăn mất phương hướng về con đường học thuật và lý tưởng của cuộc đời mình.
“Thời gian đó tôi cảm thấy khủng hoảng chủ yếu vì không tìm thấy hướng đi nào trong trí tuệ. Việc học cao học tôi thấy nhàm chán vì các kiến thức học ở đại học được lặp lại. Tôi không thấy có hứng thú nhưng cũng không tìm được một hướng nào để thoát ra khỏi tình trạng đó cả. Cảm xúc vui sướng khi được học không còn nữa. Thêm vào đó, lúc bấy giờ, khi đi làm, tôi thực sự bước vào thế giới của người lớn và có nhiều chuyện khiến tôi vô cùng thất vọng. Quá nhiều người, quá nhiều việc không như tôi mong đợi và như tôi đã nghĩ. Tôi cảm thấy buồn bã và ngột ngạt vô cùng. Trong lòng tôi thi thoảng lại nhen nhóm lên ý nghĩ hay là mình bỏ việc về quê dạy học.”
Cơ hội du học Nhật Bản đến bất ngờ là ngã rẽ quan trọng trong cuộc đời tác giả. Thời gian lên đường sang Nhật chỉ vỏn vẹn có 1 tháng sau khi có thông báo trúng tuyển, hành trang Nguyễn Quốc Vương mang theo chỉ có khao khát được học tập và trải nghiệm trong một môi trường mới.
Với vốn tiếng Nhật gần như bằng 0 và số tiền học bổng ít ỏi, anh đã giành toàn bộ thời gian vào việc học tập và nghiên cứu. Những khác biệt văn hóa và bỡ ngỡ ban đầu vơi bớt khi anh có thêm những người bạn và học hỏi được nhiều điều mới mẻ. Một lần nữa trở ngại lại tiếp tục thử thách anh, sau khi hết khóa học hầu như bạn bè quốc tế của anh đều được thầy cô hướng dẫn giới thiệu học lên tiếp, nhưng thầy hướng của anh không bảo lãnh để anh có thể tiếp tục học tiếp với lý do trình độ tiếng Nhật chưa đủ. Lúc này anh phải đứng giữa sự lựa chọn về nước làm giảng viên hay tiếp tục con đường du học đầy trông gai khi không còn học bổng.
Anh đã không ngần ngại lựa chọn tiếp tục du học, dù có thể sẽ không còn công việc giảng viên khi trở về và phải tự túc chi phí học tập và sinh hoạt. Những việc này, anh đều tự mình quyết định mà người thân và gia đình không hề hay biết. Để có chi phí trang trải cho cuộc sống vừa học anh phải vừa làm thêm đủ nghề, từ cửu vạn bốc vác vào ban đêm, đến làm thêm ở công ty làm cơm hộp rồi làm đi dịch cho các nghiệp đoàn, luật sư. Cũng từ đó anh được tiếp xúc với đủ mọi loại người từ tầng lớp dưới đáy xã hội như từ công nhân cửu vạn, tội phạm trộm cắp đến luật sư và giáo sư, bác sĩ. Môi trường cũng mở rộng từ giảng đường, kí túc xá, công xưởng, đến phòng tạm giam thậm chí là phố đèn đỏ... Vì thế anh có nhiều trải nghiệm sống phong phú.
Cuốn sách vừa cung cấp ta hiểu thêm về văn hóa, phong tục của Nhật vừa cho ta thêm những suy ngẫm về cuộc sống của du học sinh và cộng đồng người Việt tại Nhật Bản. Liệu cuộc sống của du học sinh Việt Nam tại Nhật có toàn màu hồng như những quảng cáo của các công ty môi giới xuất khẩu lao động?
Cuốn tự truyện 3000 ngày trên đất Nhật là câu chuyện rất riêng của tác giả nhưng cũng gợi ra nhiều suy ngẫm cho người đọc. Nhất là với các bạn trẻ trên con đường tìm hướng đi mới cho bản thân, dám bước ra khỏi vùng an toàn để có được lối đi riêng.
Nguyễn Quốc Vương “nghỉ hưu” ở tuổi 40 để chuyên chú đọc sách, dịch sách, viết sách và “làm Khuyến đọc”. Quyết định có phần “mạo hiểm” này, phải chăng là khát vọng “xây nền văn hóa quốc gia” của một trí thức dám dấn thân trong thế kỉ XXI hôm nay.
(Khúc Thị Hoa Phượng)
Tác giả đã trải qua những năm tháng khó khăn vất vả những cũng không kém phần ngọt ngào ấm áp vì anh nhận được sự giúp đỡ đùm bọc của những người xa lạ. Cuốn sách có sự cô đơn của một người đi độc hành trên con đường học thuật, và hạnh phúc khi tìm ra chân lý và hướng đi của cuộc đời.
Nước Nhật đã tái sinh tôi thành con người khác và cũng đã làm cho tôi trở lại là chính tôi sau nhiều năm bị lạc mất chính mình. Đấy cũng là nơi tôi lấy lại cảm giác làm người, nếm trải cảm giác hạnh phúc và cả cảm giác đau khổ tột cùng.
Có những đêm khi đã trở về cố hương, ngủ trong căn nhà của mẹ, nửa đêm thức dậy khi vợ con đã ngủ say, tôi ra ngoài hiên ngồi lặng lẽ nghe tiếng côn trùng rền rĩ và nhìn bóng đêm bao trùm trước mặt. Ngày trước, hồi còn học phổ thông, tôi cũng thường ngồi một mình nhìn ra bóng đêm đen trước mặt như thế mỗi khi học xong chuẩn bị đi ngủ.
Thời gian trôi thật nhanh. Ngọt ngào mà tàn nhẫn. Bóng đêm vẫn như xưa, tiếng côn trùng vẫn thế dù có vẻ thưa hơn nhưng tôi không còn là cậu bé con hay chàng thanh niên mới lớn nữa. Tôi đã đi rất xa ra khỏi ngôi nhà ấy trong một thời gian dài và rồi trở lại. Tất cả những gì tôi đã trải qua ở nước Nhật xa xôi giờ đây giống như một giấc mộng kê vàng. Kí ức về nó vừa tươi mới vừa mỏng manh như thể là không thực. Có lúc tôi có cảm giác băn khoăn rằng thực sự thì có phải mình đã đến Nhật và sống ở Nhật trong từng ấy năm không hay đó là ảo ảnh?
Nhà xuất bản Phụ Nữ Việt Nam xin trân trọng giới thiệu.
MỤC LỤC
Thay cho lời tựa 7
Phần I. 2000 NGÀY Ở SHIGA 15
Chương 1. Buổi sáng ở sân bay Kansai 17
Chương 2. Cuộc phỏng vấn bất ngờ 26
Chương 3. Đại học Shiga 34
Chương 4. Ký túc xá Hiratsugaoka 41
Chương 5. Thầy Yamazaki 48
Chương 6. Cô Kobayahi và cô Sato 55
Chương 7. Những người bạn Nhật 62
Chương 8. Những người bạn quốc tế 76
Chương 9. Suýt lấy vợ Nhật 98
Chương 10. Bạn cùng phòng người Trung Quốc 106
Chương 12. Vấp ngã 116
Chương 13. Đi làm cửu vạn 130
Chương 14. Cô Kawasaki 148
Chương 15. Bàn tay của thần may mắn 162
Chương 16. Việc học ở Đại học Shiga 174
Chương 17. Những chuyến đi chơi 197
Chương 18. Trận động đất ở vùng Đông Bắc Nhật Bản 207
Chương 19. Cuộc sống thường ngày ở Shiga 219
Phần II. 1000 NGÀY Ở KANAZAWA 229
Chương 20. Trở lại Nhật Bản 231
Chương 21. Chàng hàng xóm nhiều râu 237
Chương 22. Người Việt ở Ishikawa 243
Chương 23. Thuyết phục vợ ở lại Nhật Bản 253
Chương 24. Làm bố ở nước ngoài 256
Chương 25. Nhà trẻ Sakura 266
Chương 26. Bước vào thế giới thực tập sinh 271
Chương 27. Làm việc cho nghiệp đoàn Ozaki 288
Chương 28. Ngài Tanaka 301
Chương 29. Bán điện thoại cho ông Komura 309
Chương 30. Những cuộc gặp trong đồn cảnh sát 320
Chương 31. Việc học ở Kanazawa 347
Chương 32. Đưa thầy cô người Nhật về Việt Nam 359
Chương 33. Cuộc sống ở Kanazawa 369
Chương 34. Vĩ thanh 382
Mùi Của Cố Hương
Cuốn sách tập hợp các bài viết của tác giả Nguyễn Quốc Vương về những kỉ niệm thời thơ ấu ở làng, những niềm vui, nỗi buồn, những trải nghiệm khác nhau ở cố hương.
Có thể đó là trải nghiệm của riêng tác giả mà đó cũng có thể là trải nghiệm chung của rất nhiều người, những người có tuổi thơ ở làng quê nhưng sau đó lại phiêu dạt nơi thành phố.
“Văn chương có thể chỉ để chơi, nhưng ở góc độ nào đó nó cũng là tiếng kêu gọi bạn hoặc tiếng khóc gọi bầy.”
Tại Kho Sách, chúng tôi tạo ra một không gian dành riêng cho những đam mê đọc sách, từ những người đam mê văn học đến những người muốn khám phá thế giới qua trang sách.