Người Hoa Ở Việt Nam Thời Kỳ Nhà Nguyễn Trước Pháp Thuộc
Cộng đồng người Hoa ở Việt Nam từ lâu đã được coi là một phần của khối đại đoàn kết dân tộc. Tuy nhiều vấn đề vẫn còn cần thêm các tranh biện, nhưng không thể phủ nhận những đóng góp và những ảnh hưởng tích cực của người Hoa lên nền kinh tế – chính trị – xã hội của Việt Nam.
Với nhiều năm nghiên cứu về người Hoa ở Việt Nam và các nước trong khu vực Đông Nam Á, qua công trình “Người Hoa ở Việt Nam – Thời kỳ nhà Nguyễn trước Pháp thuộc”, tác giả PGS.TS. Dương Văn Huy đem đến góc nhìn/luận điểm/kiến giải sâu sắc cho cả giới nghiên cứu lẫn bạn đọc quan tâm về chủ đề này.
Người Hoa di cư đến Việt Nam vừa mang tính chất tự phát nhưng cũng vừa mang tính tổ chức. Cộng đồng này đã xuất hiện tại khá nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là tại khu vực châu Á, đem theo đó là bản sắc tộc người và khả năng thích ứng cũng như tác động tới văn hóa bản địa. Công trình của tác giả Dương Văn Huy đã cung cấp một bức tranh khá toàn diện về sự biến đổi về lượng và chất của cộng đồng dân nhập cư này, nhất là sự gia tăng vai trò của họ trong nền thương mại và sự hội nhập của họ trong xã hội Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XIX.
Mối quan hệ hai chiều giữa người Hoa với dân tộc Việt, và giữa hệ thống chính trị Việt Nam đương thời, cụ thể là các triều đại Lý – Trần – Lê – Nguyễn đối với người Hoa, cũng đã được luận bàn. Từ đó bạn đọc có thể thấy một bức tranh chuyển động không ngừng của hai luồng văn hóa Việt – Trung cũng như mối quan hệ chính trị – xã hội giữa hai quốc gia nằm ở Đông bán cầu. Để làm được điều đó, PGS.TS. Dương Văn Huy đã dành nhiều công sức khảo cứu một lượng lớn nguồn tài liệu gốc, chính văn của triều Nguyễn, tạo dựng nên những luận điểm, luận giải có độ tin cậy rất cao.
Tuyển Tập Bản Đồ Và Địa Danh Kinh Thành Huế - Bìa Cứng
Ấn phẩm cuối cùng thuộc bộ sách HUẾ KỲ BÍ
Khác với hai ấn phẩm trước là “Huế điều kỳ bí” và “Lăng Gia Long”, ấn phẩm “Tuyển tập đồ bản và địa danh Kinh thành Huế” lại cung cấp tới bạn đọc một lượng thông tin vô cùng lớn về Kinh thành Huế qua hệ thống đồ bản khổng lồ do hai tác giả Henri Cosserat và Léopold Michel Cadière sưu tầm.
Thực vậy, cho tận đến năm 1884 khi người Pháp đã làm chủ cả Trung Kỳ thì đối với họ, Kinh thành Huế vẫn là một điều cực kỳ bí ẩn. Từ những bí mật về kiến trúc, cung đình và pháo đài Huế cho đến những bí mật về quân sự diễn ra trong Kinh thành, người Pháp đã mất hơn 80 năm nhưng vẫn không có nhiều tài liệu. Đối với một chế độ thực dân như Pháp, việc thiếu đi những điều tra quan trọng như vậy sẽ ít nhiều ảnh hưởng tới chế độ quân sự và ngoại giao… Và cho đến khi Henri Cosserat và Léopold Michel Cadière bắt đầu công việc của mình, tác phẩm này của hai ông đã được tập san “Đô thành hiếu cổ” ở Huế đăng tải trong nhiều số, từ tháng 1 đến tháng 6 năm 1933.
Trong “Tuyển tập đồ bản và địa danh Kinh thành Huế”, hai tác giả không chỉ trình bày cho chúng ta mỗi hình ảnh của các đồ bản, mà còn có phân tích kèm theo. 28 đồ bản (hoặc bình đồ) được xếp theo thứ tự thời gian xuất hiện và được giới thiệu đầy đủ từ xuất xứ (thời gian, nguồn tư liệu, nơi công bố lần đầu…) cũng như ý nghĩa, công dụng cần thiết của chúng.
Ở phần cuối sách – “Địa danh Kinh thành Huế”, tác giả L. Cadière như đã bổ khuyết một bản phụ lục rất tuyệt vời cho “bộ sưu tập” của H. Cosserat. Nhiều nhân vật, địa điểm, sự kiện… trong các đồ bản mà H. Cosserat giới thiệu đã được L. Cadière định vị và lý giải, hơn nữa là bổ chú chi tiết và cặn kẽ – một điều giúp ích không ít cho những nhà Huế học hay những bạn đọc yêu mến xứ Huế như chúng ta ngày nay.
Lịch sử trung đại Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn thế kỷ XVII - XVIII là mảng đề tài không mới, đã được giới sử học tìm tòi, nghiên cứu trong nhiều thập kỷ. Trong điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã hội Việt Nam, vấn đề này, cho đến nay, vẫn còn nguyên tính thời sự. Việc nhìn nhận lại từng sự kiện trong bối cảnh Nam - Bắc phân tranh, vua Lê - chúa Trịnh cùng nhau nắm quyền ở Đàng Ngoài, cũng như về nguồn tư liệu, các công trình nghiên cứu, các nhận thức khoa học về vấn đề quen thuộc nhưng phức tạp này, xét thấy là rất cần thiết.
Trên tinh thần đó, Nhà xuất bản Khoa học xã hội phối hợp với MaiHaBooks và Viện Sử học tái bản bộ sách Lịch triều tạp kỷ do Ngô Cao Lãng cùng Xiển Trai biên soạn và bổ sung. Đến tận ngày hôm nay, bộ sách vẫn giữ vẹn nguyên giá trị của một bộ tư sử được ghi chép cẩn thận, nghiêm túc và công phu, tiếp nối cho kho Việt sử tục biên nằm trong bộ Đại Việt sử ký toàn thư. Không chỉ có những giá trị sâu sắc về mặt lịch sử, Lịch triều tạp kỷ còn là một nguồn tư liệu quý giá về khía cạnh văn học, bổ sung thêm những hiểu biết về văn học trung đại Việt Nam thông qua những mô tả chi tiết về nghệ thuật xướng họa thơ ca cung đình đặc sắc cùng sự chuộng Nôm, sành Nôm của các chúa Trịnh để đề cao vai trò của chữ Nôm trong xã hội đương thời.
Có điểm lưu ý là, công trình đã được tiến hành biên dịch từ những năm 70 của thế kỷ XX trở về trước, nên nhiều địa danh và địa bàn nghiên cứu được đề cập đến nay sau nhiều lần thay đổi địa giới hành chính đã đổi khác. Việc khảo sát để xác minh các địa danh này là việc làm rất phức tạp mà chúng tôi chưa thực hiện được…. Do vậy, chúng tôi xin được giữ nguyên những địa danh của lần xuất bản trước. Một điều đặc biệt trong lần tái bản này, đó là, cùng với bản dịch tác phẩm, chúng tôi in kèm theo nguyên bản chữ Hán. Đây là sự khác biệt so với các lần xuất bản trước đây.
Lịch sử trung đại Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn thế kỷ XVII - XVIII là mảng đề tài không mới, đã được giới sử học tìm tòi, nghiên cứu trong nhiều thập kỷ. Trong điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã hội Việt Nam, vấn đề này, cho đến nay, vẫn còn nguyên tính thời sự. Việc nhìn nhận lại từng sự kiện trong bối cảnh Nam - Bắc phân tranh, vua Lê - chúa Trịnh cùng nhau nắm quyền ở Đàng Ngoài, cũng như về nguồn tư liệu, các công trình nghiên cứu, các nhận thức khoa học về vấn đề quen thuộc nhưng phức tạp này, xét thấy là rất cần thiết.
Trên tinh thần đó, Nhà xuất bản Khoa học xã hội phối hợp với MaiHaBooks và Viện Sử học tái bản bộ sách Lịch triều tạp kỷ do Ngô Cao Lãng cùng Xiển Trai biên soạn và bổ sung. Đến tận ngày hôm nay, bộ sách vẫn giữ vẹn nguyên giá trị của một bộ tư sử được ghi chép cẩn thận, nghiêm túc và công phu, tiếp nối cho kho Việt sử tục biên nằm trong bộ Đại Việt sử ký toàn thư. Không chỉ có những giá trị sâu sắc về mặt lịch sử, Lịch triều tạp kỷ còn là một nguồn tư liệu quý giá về khía cạnh văn học, bổ sung thêm những hiểu biết về văn học trung đại Việt Nam thông qua những mô tả chi tiết về nghệ thuật xướng họa thơ ca cung đình đặc sắc cùng sự chuộng Nôm, sành Nôm của các chúa Trịnh để đề cao vai trò của chữ Nôm trong xã hội đương thời.
Có điểm lưu ý là, công trình đã được tiến hành biên dịch từ những năm 70 của thế kỷ XX trở về trước, nên nhiều địa danh và địa bàn nghiên cứu được đề cập đến nay sau nhiều lần thay đổi địa giới hành chính đã đổi khác. Việc khảo sát để xác minh các địa danh này là việc làm rất phức tạp mà chúng tôi chưa thực hiện được…. Do vậy, chúng tôi xin được giữ nguyên những địa danh của lần xuất bản trước. Một điều đặc biệt trong lần tái bản này, đó là, cùng với bản dịch tác phẩm, chúng tôi in kèm theo nguyên bản chữ Hán. Đây là sự khác biệt so với các lần xuất bản trước đây.
Sách "Lê quý dật sử" trình bày các sự kiện lịch sử theo thể biên niên từ năm Mậu Dần Cảnh Hưng thứ 19 (1758) đến năm Quý Sửu Cảnh Thịnh 1 (1793).
Sách không đề tên tác giả biên soạn, nhưng các công trình biên soạn và nghiên cứu như: "Lược truyện các tác giả Việt Nam", "Tìm hiểu thiên tài quân sự Nguyễn Huệ", "Đại Việt sử ký toàn thư" phần bản kỷ tục biên đã ghi nhận tác giả của "Lê quý dật sử" là Bùi Dương Lịch.
Tiêu đề của cuốn sách "Lê quý dật sử" nghĩa là “những sự kiện lịch sử còn sót lại thời cuối Lê”. Đó là nguyện vọng của tác giả và cũng chính là nét tiêu biểu của tác phẩm.
Các sự kiện lịch sử được ghi chép trong Lê quý dật sử khá chi tiết và phong phú, có thể chia làm ba loại chính:
Loại ghi tóm tắt những sự kiện lớn mà chính sử đã ghi để tiện theo dõi.
Loại ghi chi tiết thêm. Ví dụ về thi cử, các sách sử đều ghi về khoa cử, nhưng qua Lê quý dật sử, ta biết thêm về những tệ nạn phiền toái trong thi cử…
Loại bổ sung thêm: Loại này khá phong phú. Ví dụ tác giả ghi lại nhiều văn thơ bằng chữ Nôm, điều này thể hiện chữ Nôm thời đấy đã được sử dụng rộng rãi trong các hoạt động của đời sống xã hội…
Tái bản từ bản dịch của Viện Nghiên cứu Hán Nôm in năm 1987, trong lần xuất bản này, MaiHaBooks đã bổ sung nội dung nguyên bản chữ Hán sách "Lê quý dật sử" hiện đang được lưu trữ tại thư viện Viện Sử học. Hy vọng cuốn sách sẽ mang tới cho bạn đọc yêu thích lịch sử, cũng như những nhà nghiên cứu Sử học nguồn tư liệu quý giá trong quá trình tìm hiểu và biên dịch các tác phẩm lịch sử thời kỳ này.
Sách Quan Chế - Des Titres Civils Et Militaires Francais Avec Leur Traduction En Quốc Ngữ
Năm 1874, triều đình Huế ký với Pháp Hiệp ước Giáp Tuất, chính thức thừa nhận chủ quyền của Pháp đối với 6 tỉnh Nam Kỳ. Từ đây, thực dân Pháp đã tổ chức xây dựng một bộ máy cai trị, bố trí quan lại chức tước nhằm dần hoàn thiện công cuộc bình định Nam Kỳ, làm bàn đạp tiến tới xâm chiếm toàn bộ nước ta. Điểm đặc biệt của bộ máy cai trị thời kỳ này là có sự tồn tại cùng lúc các quan chức người Pháp và quan lại lục bộ Annam trong chính quyền.
Paulus Của hay Huỳnh Tịnh Của (1830-1908), hiệu Tịnh Trai, quê ở huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Trong thời gian được bổ nhiệm Ðốc phủ sứ, làm Giám đốc ty phiên dịch văn án ở Soái phủ Sài Gòn, ông đã nhận thấy nhiều điểm bất tiện trong cách gọi và cách hiểu các chức vị trong bộ máy hành chính: người Pháp khó có thể nghe và đọc hiểu các chức quan của người Annam và ngược lại, người Annam cũng không thể hiểu rõ ràng các chức vụ của người Pháp trong chính quyền cai trị. Để giải quyết khó khăn đó, dựa vào hội điển nhà Thanh, hội điển Nam Việt, kết hợp với vốn hiểu biết phong phú về tiếng Pháp, chữ Nho và những nghiên cứu về chữ Quốc ngữ của mình, Paulus Của đã tổng hợp và cho ra đời cuốn SÁCH QUAN CHẾ (Des titres civils et militaires français avec leur traduction en Quốc ngữ – Les six ministères de l’Annam et leur composition organisation civile et militaire).
Tái bản từ ấn bản SÁCH QUAN CHẾ của Huỳnh Tịnh Của in năm 1888, MaiHaBooks đã hiệu chỉnh và bổ sung một số nội dung với mong muốn có thể mang đến cho bạn đọc cái nhìn chính xác và tổng quát về tổ chức bộ máy cai trị của thực dân Pháp áp đặt lên nước ta, cụ thể là ở Nam Kỳ, vào những buổi đầu của cuộc xâm lược.
Ấn phẩm SÁCH QUAN CHẾ lần này của chúng tôi gồm có hai phần trọng tâm:
Phần chính văn: là nguyên bản nội dung “Quan chế” dùng từ ấn bản in năm 1888:
Trong phần này, tác giả đã phân chia thành hai nội dung chính đó là: Quan chế thuộc quan Langsa (hay chính là bộ máy quan lại thực dân người Pháp) và Quan chế thuộc quan Annam (hay chính là bộ máy quan lại của chính quyền phong kiến người Annam). Phần biên khảo đặc biệt ở chỗ, tác giả đã sử dụng song song cùng lúc 3 loại chữ viết: Quốc ngữ, Pháp và chữ Nho để gọi tên cũng như giải thích ý nghĩa của từng chức vị.
Phần phụ lục: “Nghị định quan chế hương chức ở Nam Kỳ”:
Đây là nội dung được MaiHaBooks bổ sung thêm vào bản in năm 2021, nhằm cung cấp cho độc giả có một cái nhìn tổng quan hơn về tổ chức bộ máy quan lại từ trung ương đến địa phương tại Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Phụ lục này lấy nguyên văn từ bản “Nghị định về tổ chức hoạt động hương chức trong các làng xã ở Nam Kỳ” do Thống đốc Nam Kỳ François Pierre Rodier thông báo theo lệnh của viên Toàn quyền Đông Dương Jean Beau năm 1904. Nội dung Nghị định được viết bằng 4 loại chữ viết: Langsa (Pháp), Annam (Quốc ngữ), chữ Nho và Cao Miên (Campuchia). Nghị định trình bày chi tiết các khía cạnh xoay xung quanh vấn đề quan chế hương chức (hay Hội đồng Kỳ mục) trong các làng xã ở Nam Kỳ như: Cơ cấu tổ chức; Quyền lợi và nhiệm vụ; Chế độ tuyển cử, thăng chức, thưởng công, trừng phạt, cách chức; Quy trình xử lý kiện tụng; Quy định về nhận tiền phí lộ khi đi làm việc công…
Hi vọng những nội dung được trình bày trong cuốn sách sẽ cung cấp cho bạn đọc nguồn tư liệu cần thiết trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu về lịch sử Việt Nam thời kỳ đầu thực dân Pháp xâm lược.
Quá Trình Di Cư Và Hoạt Động Chính Trị - Xã Hội Của Người Việt Ở Lào (1893-1945)
Cuốn sách là một chuyên luận lịch sử được tác giả dày công tìm tòi, tích lũy, tập hợp, giải mã những số liệu, sự kiện, biến cố lịch sử, từ những nguồn sử liệu trong nước và nước ngoài (đặc biệt các nguồn tài liệu lưu trữ của chính quyền thực dân Pháp, các hồi kí của các nhà hoạt động cách mạng người Việt ở Lào) để cung cấp cho bạn đọc một cách hệ thống, chi tiết về một khía cạnh quan trọng của lịch sử Lào cũng như những biểu hiện bước đầu của quan hệ đoàn kết Lào – Việt.
Công trình nghiên cứu của Tiến sĩ Nguyễn Thị Tuyết Nhung không đề cập đến mọi mặt hoạt động của người Việt ở Lào trong giai đoạn 1893 – 1945, mà chỉ tập trung vào khía cạnh quá trình di cư và hoạt động chính trị - xã hội của họ. Đọc cuốn sách của tác giả, độc giả có thể lý giải được vì sao giai đoạn này người Việt lại sang Lào đông đảo như vậy? Các hình thức di cư của người Việt đến Lào như thế nào? Vì sao đa số người lao động Việt lại đi theo cách mạng, đoàn kết với nhân dân các bộ tộc Lào chống thực dân Pháp? Hình thức, qui mô đấu tranh chống thực dân Pháp của người Việt ở Lào. Đồng thời, bạn đọc còn hiểu rõ hơn về chính sách cai trị và khai thác thuộc địa của chính quyền thực dân Pháp ở Lào cũng như ở Đông Dương; thấy được dưới tác động từ chính sách cai trị của chính quyền thuộc địa, người Việt di cư đến Lào đông đảo, làm nhiều nghề khác nhau và phân hóa thành hai bộ phận: Một bộ phận nhỏ đi theo, làm việc cho chính quyền thực dân Pháp và một bộ phận lớn đi theo cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Kim Vân Kiều Truyện
Trong giới nghiên cứu và đông đảo công chúng bạn đọc từng mến mộ Truyện Kiều của Nguyễn Du, từng quan tâm tìm hiểu vấn đề văn bản và xuất xứ Truyện Kiều đều biết rằng tác phẩm được thi hào Nguyễn Du chuyển dịch, sáng tạo lại nương theo bộ tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân người đời Thanh (Trung Quốc).
Một lẽ hiển nhiên, lịch sử văn học thế giới cũng đã chứng kiến không hiếm những hiện tượng tương tự. Bên cạnh những tác phẩm thuộc dòng văn chương bác học vốn được xây dựng trên cơ sở đề tài, cốt truyện của văn học dân gian, có tính chất nội sinh trong nền văn hóa - văn học mỗi dân tộc, thì việc chuyển dịch, sáng tạo lại và nâng cao chất lượng tác phẩm - nhất là ở những dân tộc nằm trong cùng một vùng văn hóa - chính lại là sự thể hiện một quy luật phổ biến: qui luật giao tiếp, tiếp nhận văn hóa.
Nguyễn An Ninh (1900 – 1943), một chí sĩ yêu nước không giống bao kẻ sĩ khác cùng thời. Không giẫm bước trên dấu giày của kẻ khác, phụng sự chế độ thực dân để hưởng vinh hoa, phú quý, Nguyễn An Ninh đã vượt qua những hạng người đó, dùng tài học của mình để tìm con đường giải thoát dân chúng.
Ông tổ chức mít tính, diễn thuyết, viết báo, hăng hái đấu tranh với chính quyền thực dân bóc lột. Cuộc đời ông có hai lần diễn thuyết lớn. Lần đầu là đêm ngày 25/1/1923 với đề tài “Nền văn hóa Việt Nam”. Lần thứ hai là vào đêm 15/10/1923 với đề tài “Lý tưởng thanh niên An Nam”. Tiếng vang qua hai bài diễn thuyết của Nguyễn An Ninh đã tác động mạnh đến dư luận thanh niên và trí thức Sài Gòn, đã làm đau đầu chính quyền thống trị. Thống đốc Nam Kỳ lúc đó là Cognacq phải gọi ông lên dinh để mong bịt miệng. Dụ dỗ không thành, Cognacq đã ra lệnh cấm Nguyễn An Ninh diễn thuyết hay tụ họp bất cứ nơi đâu.
Không thể tiếp tục đấu tranh bằng lời, ông chuyển sang đấu tranh bằng ngòi bút. Ông cho ra đời báo La Cloche Fêlée (Chuông rè) bằng Pháp văn với người quản lý Pháp lai tên Eugène Dejean de la Bâtie vào ngày 10/12/1923. Mặc dù lo sợ nhưng không cấm đoán được, viên Thống đốc Cognacq và nhà cầm quyền Pháp chủ trương đánh phá La Cloche Fêlée. Bất cứ ai cầm tờ báo trên tay cũng bị mật thám theo dõi, bị đuổi học, đuổi việc. Chủ nhà in, thợ sắp chữ liên tục bị hăm dọa. Báo phải đổi nhà in, chủ báo Nguyễn An Ninh vừa là ký giả, vừa phụ xếp chữ với thợ, sửa bản vỗ, làm long tong. Sau khi in xong, đích thân Nguyễn An Ninh mặc đồ dài, tay ôm sấp báo đứng bán ở góc đường Catinat. Phát hành được 19 số, đến ngày 14/7/1924, tờ báo phải tạm ngưng vì lý do sức khỏe của ông và sự đánh phá của giới cầm quyền.
Con đường đấu tranh của Nguyễn An Ninh không dừng lại ở đó, ông tiếp tục các hoạt động của mình bằng việc sáng lập và tổ chức Thanh niên Cao vọng Đảng, còn được biết đến với tên Hội kín Nguyễn An Ninh. Đây được xem là một trong những tổ chức có ảnh hưởng rộng khắp Nam Kỳ trong suốt thập niên 20 của thế kỷ trước…
Việt Tha – Lê Văn Thử, một chí sĩ yêu nước từng sát cánh với Nguyễn An Ninh trong những ngày đấu tranh khốc liệt, đã ghi lại về cuộc đời “anh Ninh” trong tác phẩm “Hội kín Nguyễn An Ninh” một cách chân thật và dung dị, đúng theo như tinh thần và đức tính đáng mến của tác giả: Thấy sao nói vậy! Trong những lời đầu sách, Lê Văn Thử viết:
“Tôi lấy tên quyển sách này là Hội kín Nguyễn An Ninh bởi tôi có sống trong thời kỳ ấy. Tôi được mục kích sự khủng khiếp ở đây và được nghe tiếng dội của luồng dư luận trong các chính giới ở Pháp. Họ cho là một phong trào vĩ đại chưa từng có. Họ khủng khiếp bởi bấy lâu, chừa ra một vài phong trào nông dân như Thiên Địa hội hay là Phan Xích Long do vài tên du đãng mê tín dựa vào nông dân gây ra mà chưa có một tay tri thức nào đứng ra dẫn đạo như phong trào Hội kín. Tuy quyển sách này nói nhiều về đời anh Ninh, song tôi muốn để tên Hội kín, bởi tôi muốn nhắc lại đời anh chỉ có lần hội kín mà anh được tên tuổi nhiều và cũng do hội kín mà người ta quên sự lầm lạc của anh đi.”
MaiHaBooks trân trọng giới thiệu tới quý độc giả cuốn sách “Hội kín Nguyễn An Ninh“, để chúng ta cùng nhìn lại những năm tháng đấu tranh quên mình của người chí sĩ yêu nước này.
Đến hết thế kỷ XX, có thể nói, xã hội Việt Nam vẫn là một xã hội chịu sự chi phối của ba yếu tố nông thôn – nông nghiệp – nông dân. Chế độ ruộng đất là một vấn đề “hằng xuyên” trong lịch sử Việt Nam. Mọi biến động về chế độ ruộng đất đều ảnh hưởng lớn đến cấu trúc và sự phát triển của xã hội. Vì vậy, đây là mảng đề tài luôn được các nhà Sử học, Kinh tế học Việt Nam quan tâm nghiên cứu.
Năm 1968, Nhà xuất bản Khoa học xã hội đã cho ra đờimột chuyên khảo, có thể coi là rất “nặng ký” tại thời điểmđó, với tiêu đề: Cách mạng ruộng đất ở Việt Nam, của các nhà Kinh tế học Trần Phương, Hoàng Ước và Lê Đức Bình. Côngtrình này đã khái quát lịch sử chế độ ruộng đất và cuộc cáchmạng ruộng đất Việt Nam ở cả hai miền Nam, Bắc, thể hiện tương đối rõ nét một thời kỳ lịch sử đầy thử thách của xã hội nông nghiệp Việt Nam, với nhiều luận điểm sắc sảo. Đồng thời cung cấp ít, nhiều những nhận thức và kinh nghiệm về tổ chức, quản lý nông nghiệp, nông thôn ở thời kỳ đó.
Tất nhiên, ra đời cách ngày nay hơn nửa thế kỷ, những quan điểm và nhận thức của các tác giả về cách mạng ruộng đất nói riêng và chế độ ruộng đất Việt Nam nói chung có nhiều khác biệt so với hiện nay. Tuy nhiên, nhằm góp phần tái hiện một chặng đường nghiên cứu nông thôn, nông nghiệp và chế độ ruộng đất Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội phối hợp với MaiHaBooks và Viện Kinh tế Việt Nam tái bản cuốn sách Cách mạng ruộng đất ở Việt Nam. Chúng tôi cũng hy vọng, cuốn sách là nguồn tài liệu tham khảo cho đông đảo độc giả và những ai quan tâm nghiên cứu về chế độ ruộng đất Việt Nam nói riêng, nông thôn, nông nghiệp Việt Nam nói chung và về sự chuyển đổi của chế độ ruộng đất đã diễn ra tại Việt Nam trong thế kỷ trước.
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!
Nối tiếp bộ 5 sách thiếu nhi dân gian Nga đã được ra mắt, “Cô Ruồi nhỏ hoạt bát” nằm trong bộ 7 cuốn thiếu nhi mới tiếp tục được dịch giả Lê Hải Đoàn mang tới ra mắt độc giả. Các truyện tranh được minh họa bằng những hình ảnh hóm hỉnh, ngộ nghĩnh thể hiện tâm hồn nghệ sĩ dân gian Nga.
1. Cá rô nhảy múa
2. Bà Gấu già ngồi trên khúc gỗ
3. Bầy thú con
4. Cô Ruồi nhỏ hoạt bát
5. Mặt Trời bị đánh cắp
6. Vững Chãi-như-Đá Tảng, Mềm Mại-như-Lụa Đào và Ngọt Ngào-như-Giọt Mật
7. Thú con trong sở thú
Nội dung mang tính giáo dục cao, màu sắc tươi sáng, nét vẽ minh họa đáng yêu nhưng cũng không kém phần nghệ thuật.
Ấn phẩm truyện tranh dân gian Nga lần này hứa hẹn tiếp tục sẽ mang đến cho bé và bố mẹ những giây phút trải nghiệm vui vẻ bên nhau.
Nối tiếp bộ 5 sách thiếu nhi dân gian Nga đã được ra mắt, “Mặt Trời bị đánh cắp” nằm trong bộ 7 cuốn thiếu nhi mới tiếp tục được dịch giả Lê Hải Đoàn mang tới ra mắt độc giả. Các truyện tranh được minh họa bằng những hình ảnh hóm hỉnh, ngộ nghĩnh thể hiện tâm hồn nghệ sĩ dân gian Nga.
1. Cá rô nhảy múa
2. Bà Gấu già ngồi trên khúc gỗ
3. Bầy thú con
4. Cô Ruồi nhỏ hoạt bát
5. Mặt Trời bị đánh cắp
6. Vững Chãi-như-Đá Tảng, Mềm Mại-như-Lụa Đào và Ngọt Ngào-như-Giọt Mật
7. Thú con trong sở thú
Nội dung mang tính giáo dục cao, màu sắc tươi sáng, nét vẽ minh họa đáng yêu nhưng cũng không kém phần nghệ thuật.
Ấn phẩm truyện tranh dân gian Nga lần này hứa hẹn tiếp tục sẽ mang đến cho bé và bố mẹ những giây phút trải nghiệm vui vẻ bên nhau.
Nối tiếp bộ 5 sách thiếu nhi dân gian Nga đã được ra mắt, “Vững Chãi-như-Đá Tảng, Mềm Mại-như-Lụa Đào và Ngọt Ngào-như-Giọt Mật” nằm trong bộ 7 cuốn thiếu nhi mới tiếp tục được dịch giả Lê Hải Đoàn mang tới ra mắt độc giả. Các truyện tranh được minh họa bằng những hình ảnh hóm hỉnh, ngộ nghĩnh thể hiện tâm hồn nghệ sĩ dân gian Nga.
1. Cá rô nhảy múa
2. Bà Gấu già ngồi trên khúc gỗ
3. Bầy thú con
4. Cô Ruồi nhỏ hoạt bát
5. Mặt Trời bị đánh cắp
6. Vững Chãi-như-Đá Tảng, Mềm Mại-như-Lụa Đào và Ngọt Ngào-như-Giọt Mật
7. Thú con trong sở thú
Nội dung mang tính giáo dục cao, màu sắc tươi sáng, nét vẽ minh họa đáng yêu nhưng cũng không kém phần nghệ thuật.
Ấn phẩm truyện tranh dân gian Nga lần này hứa hẹn tiếp tục sẽ mang đến cho bé và bố mẹ những giây phút trải nghiệm vui vẻ bên nhau.
Khi yêu cần “tình” thế nào?
Tên tuổi của nhà văn Vũ Trọng Phụng gắn liền với nhiều tác phẩm nổi tiếng như Giông tố, Vỡ đê, Số đỏ. Tuy nhiên, một tiểu thuyết khác rất thú vị, được ông sáng tác cùng Nguyễn Đình Khôi năm 1937, trước khi mất hai năm – “Lấy nhau vì tình” – lại ít được biết đến. Đây là tiểu thuyết thuộc dòng tâm lý xã hội nói về chuyện tình yêu nam nữ trong buổi giao thời.
Tiểu thuyết “Lấy nhau vì tình” cổ điển, lãng mạn mà hiện đại. Đó là câu chuyện về tình yêu lứa đôi của các cô cậu tân thời nơi phố thị, thể hiện khát vọng tự do yêu đương và hôn nhân tự nguyện, dường như là đi ngược với quan niệm về hôn nhân truyền thống. Truyện tình thú vị, lôi cuốn với những tình tiết éo le, nhiều diễn biến phức tạp của tâm lý yêu đương được diễn tả bằng văn phong điêu luyện, hấp dẫn đặc trưng của nhà văn kỳ tài Vũ Trọng Phụng, lại được bọc trong hình hài của kiểu truyện Nôm tài tử giai nhân qua ba chặng đường: Gặp gỡ – Tai biến – Đoàn tụ. Hay là ở chỗ đó, ngay trong mạch truyện, ngay trong ngôn ngữ đã có sự đan xen giữa cũ và mới, giữa hiện đại và truyền thống, giữa cổ điển và tân thời. Văn chương hiện đại, mấy tác phẩm làm được tài tình đến thế.
“Lấy nhau vì tình” không phải là một loại ngôn tình lâm ly sầu tủi. Tình yêu đơm hoa, kết trái, trọn vẹn thể hiện khát vọng của nhà văn và giới trẻ về hạnh phúc lứa đôi của tình yêu tự do và hôn nhân tự nguyện trong buổi giao thời của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX. Nhà văn khẳng định, yêu là để kiếm tìm hạnh phúc, nếu yêu mà quá đau khổ thì tốt nhất nên dừng lại. Trai gái yêu đương, tìm hiểu nhau trước khi cưới là điều nên làm, nhưng cả hai đều cần phải sáng suốt, khôn ngoan và biết trân trọng, gìn giữ cho người yêu. Quan điểm này của tác giả đặt vào bối cảnh hiện đại như ngày nay vẫn còn đúng, và sẽ vẫn luôn đúng.
Như với những lần tái bản đã ra mắt thị trường trước đây, ấn phẩm “Lấy nhau vì tình” của MaiHaBooks tái bản từ tác phẩm gốc được in trên báo Tiểu thuyết thứ Ba do Nhà xuất bản Mai Lĩnh ấn hành. Điểm đặc biệt là trong lần in đầu tiên này, ngay ở từng số báo đều ghi rõ đồng tác giả là NGUYỄN ĐÌNH KHÔI và VŨ TRỌNG PHỤNG.
Cũng trong lần xuất bản này, MaiHaBooks hân hạnh khi được hợp tác với một trong những họa sĩ đương đại hàng đầu Việt Nam – họa sĩ Lê Thiết Cương. Hy vọng với sự kết hợp thú vị này, chúng tôi có thể gửi tới quý độc giả ấn phẩm “Lấy nhau vì tình” không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn mang tính thẩm mỹ cao của nghệ thuật hội họa đương đại. 12 bức họa (gồm 11 bức trong nội dung truyện và 1 bức ở bìa sách) được thể hiện bằng những nét vẽ tối giản một cách tự nhiên của họa sĩ Lê Thiết Cương sẽ mang đến cho bạn đọc cách thức mới mẻ nhưng cũng không kém phần sâu sắc khi trải nghiệm cuốn sách.
Những ghi chép khốc liệt…
Nằm trong Bộ sách Ký ức Đông Dương, MaiHaBooks trân trọng giới thiệu tới bạn đọc tác phẩm “Ở Bắc Kỳ 1883-1885” (Au Tonkin 1883-1885), một công trình đặc sắc của nhà báo, nhà văn, nhà thiết kế người Pháp – Georges Hardouin (Dick de Lonlay). Cũng như những tác phẩm khác trong bộ sách này, Ở Bắc Kỳ 1883-1885 tiếp tục là một công trình chứa đựng những góc nhìn khác về Đông Dương, được viết lên từ ngòi bút của những người bên kia chiến tuyến…
Ở Bắc Kỳ 1883-1885 là một tác phẩm lịch sử chân thật, với phần lớn trang viết được tập hợp từ các báo cáo chiến trường, các tường thuật chi tiết từ báo chí đương thời, nhật ký trực tiếp về các trận đánh chủ yếu ở Bắc Kỳ và Trung Hoa, mở màn là trận Thuận An (1883) tại Huế và kết thúc là cái chết của Phó đô đốc Courbet trên soái hạm Bayard tại Mã Công – Đài Loan (1885).
Xuyên suốt tác phẩm là các trận đánh ở An Nam tại Huế, Nam Định, Hải Dương, Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Lạng Sơn… và tấn công vượt qua Ải Nam Quan trên đất Trung Hoa. Tại vịnh Bắc Kỳ, tác phẩm đã cho thấy những trận tấn công hải tặc Trung Hoa của Sư đoàn hải quân Bắc Kỳ dưới sự dẫn dắt của Phó đô đốc Courbet cùng soái hạm Bayard huyền thoại. Các trận đánh trên bộ khốc liệt tại Bắc Kỳ giữa người Pháp với quân chính quy nhà Thanh, quân Cờ Đen của tướng Lưu Vĩnh Phúc, đặc biệt là sự tham chiến của lực lượng người Mường trong đội hình quân đội An Nam.
Mặc dù được viết dưới góc độ của kẻ đi xâm lấn, đôi chỗ tác giả ghi chép còn mang tính chủ quan, thiên lệch, nhưng Ở Bắc Kỳ 1883-1885 vẫn xứng đáng là một nguồn sử liệu quý giá, cung cấp tới độc giả thông tin chân thật, chi tiết và đa dạng về những trận chiến khốc liệt tại chiến trường Đông Dương.
Không chỉ ghi chép về chiến trận, những mô tả trong công trình về xã hội, tự nhiên, con người và khí hậu cũng là một nguồn tư liệu hết sức đáng giá về một giai đoạn đầy biến động và không nhiều tư liệu đương thời ghi chép lại. Các cấu trúc địa hình, địa danh và cảnh quan trong tác phẩm được khảo tả hết sức kỹ lưỡng và được ghi chép đầy đủ ở các trận chiến và trên đường hành quân của người Pháp. Thông qua tác phẩm, chúng ta hiểu thêm về xã hội, tự nhiên và con người tại Bắc Kỳ ở giai đoạn này.
Bởi vậy, trong lời giới thiệu Bộ sách Ký ức Đông Dương, GS.TS. Đỗ Quang Hưng đã dành nhiều lời khen ngợi cho công trình này. “Tôi chắc [cuốn sách Ở Bắc Kỳ 1883-1885] sẽ hấp dẫn bạn đọc dù rằng nội dung liên quan đến việc chinh phục xứ Đông Dương của người Pháp mà bạn đọc đã từng thưởng thức qua những tác phẩm của Andre Masson, Claude Bourrin… Dick de Lonlay bằng lối kết hợp ghi chép sự kiện của nhà sử học với những cảm quan cá nhân “tự truyện”, đã làm sống dậy bức tranh lịch sử ở Hà Nội và Bắc Kỳ những năm tháng cuối cùng của cuộc chinh phục.”
Không Gian Tâm Linh Của Người Hà Nội
Có một Hà Nội tấp nập, có một Hà Nội tụ hội một cộng đồng dân cư đa dạng với nhiều dấu ấn tâm linh. Không gian thiêng nói riêng và đời sống tâm linh của người Hà Nội nói chung, từ đó, trở thành những bí ẩn cần thôi thúc được khám phá. Và cuốn sách “KHÔNG GIAN TÂM LINH CỦA NGƯỜI HÀ NỘI” sẽ giúp bạn giải đáp nhiều câu hỏi trên hành trình này.
“Tâm thức tôn giáo sẽ quay trở lại và thế kỷ XXI ít nhất cũng là thế kỷ của tâm linh” (A. Malreaux, 1989). Chúng ta đã đi qua gần 1/4 thế kỷ này và rõ ràng dự đoán trên hoàn toàn có giá trị thực tiễn. Gắn điều ấy vào đời sống đang chảy trôi của người dân Hà Nội, chúng ta dần nhận ra rằng “trên mảnh đất ngàn năm văn vật” có rất nhiều điều cần bàn luận, khi các không gian thiêng dường như là những gì rất quen thuộc và đặc biệt.
Từ những thế kỷ trước, công cuộc nghiên cứu về văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng của người Việt, hay đặc biệt là người dân Thăng Long - Hà Nội đã được nhiều học giả trong và ngoài nước ghi chép, nghiên cứu. Nhưng vẫn còn đó những khía cạnh chưa được đề cập, và ấn phẩm “KHÔNG GIAN TÂM LINH CỦA NGƯỜI HÀ NỘI” sẽ là những trang sách góp phần lấp đầy khoảng trống đó. Cụ thể, lần đầu tiên, bạn đọc có thể hiểu được đầy đủ hơn không chỉ tiến trình lịch sử các tôn giáo, những biến thể của các hình thức tín ngưỡng, mà còn là đời sống tôn giáo (La vie religieuse). Cùng với đó, là những hình ảnh sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng, cũng như hình ảnh cụ thể của các “nhân vật” tôn giáo ở Thăng Long - Hà Nội.
Có một Hà Nội tấp nập, có một Hà Nội tụ hội một cộng đồng dân cư đa dạng với nhiều dấu ấn tâm linh. Không gian thiêng nói riêng và đời sống tâm linh của người Hà Nội nói chung, từ đó, trở thành những bí ẩn cần thôi thúc được khám phá. Và cuốn sách “KHÔNG GIAN TÂM LINH CỦA NGƯỜI HÀ NỘI” sẽ giúp bạn giải đáp nhiều câu hỏi trên hành trình này.
Nghệ Thuật Phật Giáo
Là một học giả ưu tú trong lĩnh vực lịch sử nghệ thuật, GS. DIETRICH SEKEL – vị giáo sư người Đức, công tác tại Đại học Heidelberg và là thành viên tương ứng của Viện Hàn lâm Khoa học Heidelberg, đã có công trình nghiên cứu nghiêm túc và cho xuất bản ấn phẩm “NGHỆ THUẬT PHẬT GIÁO” (tên gốc: “KUNST DES BUDDHISMUS”) với những lý luận chuyên sâu về chủ đề này.
Hiện lên giữa những bất hạnh của đời sống, như một hiện thân của sự cứu rỗi và giải thoát, Phật giáo đã mang đến một làn gió mới cho tư tưởng, quan niệm về thế giới của đông đảo người dân trên khắp thế giới. Mang những đặc điểm, yếu tố mà không có bất cứ tôn giáo nào trên thế giới sở hữu, vậy nên, con đường truyền bá Phật giáo đã trải rộng khắp thế giới, đặc biệt tại khu vực châu Á, ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống văn hóa, tín ngưỡng của những nền văn minh lớn – những nơi vốn có tôn giáo bản địa mà dấu ấn khó xóa nhòa.
Là một học giả ưu tú trong lĩnh vực lịch sử nghệ thuật, GS. DIETRICH SEKEL – vị giáo sư người Đức, công tác tại Đại học Heidelberg và là thành viên tương ứng của Viện Hàn lâm Khoa học Heidelberg, đã có công trình nghiên cứu nghiêm túc và cho xuất bản ấn phẩm “NGHỆ THUẬT PHẬT GIÁO” (tên gốc: “KUNST DES BUDDHISMUS”) với những lý luận chuyên sâu về chủ đề này.
Phật giáo qua hàng thế kỷ truyền bá và phát triển đã chứng minh sự linh hoạt của mình khi không cạnh tranh với những tôn giáo, tín ngưỡng bản địa, mà ngược lại cùng song hành, hòa hợp và thậm chí có phần đồng hóa với những giá trị riêng có tại các quốc gia. Từ đó, tạo nên những trường phái Phật giáo đa dạng, góp phần hình thành hệ thống nghệ thuật Phật giáo trải dài trên các vùng lãnh thổ. Sau khi Đức Phật nhập niết bàn, dần dà các nhu cầu thờ phụng bắt đầu xuất hiện, kéo theo sự xuất hiện của một số những công trình kiến trúc Phật giáo như bảo tháp, chùa, tu viện, đền thờ… hay những hình ảnh Phật như điêu khắc, tượng phật… Mỗi kiến trúc, biểu tượng lại chịu sự ảnh hưởng riêng của từng nước như Trung Quốc, Miến Điện, Thái Lan, Nhật Bản… nhưng vẫn giữ lại một số điểm đặc trưng.
Vậy những đặc điểm đó là gì, sự vận động của chúng theo dòng chảy thời gian ra sao? Từ những Thánh điện linh thiêng của Phật cho tới những đền chùa trên khắp thế giới, bạn đọc hãy cùng khám phá qua ấn phẩm “NGHỆ THUẬT PHẬT GIÁO”!
Lịch Sử Các Nước Ven Địa Trung Hải
Đến với “Vùng đất của mặt trời” với những con sóng xô bờ, những bờ biển tuyệt đẹp của Địa Trung Hải, chắc hẳn ai cũng sẽ phải choáng ngợp với cảnh vật thật hùng vĩ. Nằm giữa các vĩ tuyến 35 - 45 và kéo dài trên 5.000km, vùng đất phía nam châu Âu này được thiên nhiên ưu đãi một khí hậu tuyệt vời mà chắc hẳn sẽ khiến bạn nhớ đến các địa điểm du lịch nổi tiếng bãi biển Côte d’Azur, Riviera, Costa Brava, quần đảo Balearic, các đảo của Hy Lạp hay hàng trăm địa điểm lý tưởng khác.
Đối với du khách là thế, nhưng đối với những nhà nghiên cứu văn hóa, Địa Trung Hải chính là cái nôi của nền văn minh nhân loại, là vùng lõi mà ở đó và các vùng tiệm cận, những nền văn hóa rực rỡ nhất đã hình thành. Nhằm cung cấp những thông tin thú vị và hữu ích về vùng đất này, MaiHaBooks xin giới thiệu tới bạn đọc ấn phẩm “LỊCH SỬ CÁC NƯỚC VEN ĐỊA TRUNG HẢI”. Qua từng trang sách, bạn đọc sẽ cùng khám phá những đặc trưng như khí hậu, cảnh vật, đời sống con người của vùng Địa Trung Hải. Hãy cùng giải đáp những câu hỏi mà bạn đặt ra về những nền văn minh cổ đại trên miền đất này các bạn nhé!
“Thật đáng ngạc nhiên vì thế giới nghèo nàn và khô cằn này lại là cái nôi văn minh của nhân loại. Chỉ cần nghĩ đến vai trò nguyên thủy của các Pharaoh ở Ai Cập ta sẽ hiểu.” - GLOBERAMA.
Các Hiệp Ước, Hiệp Định Lịch Sử Giữa Việt Nam Với Pháp Và Mỹ (1787 - 1973)
Lịch sử là một chuỗi các sự kiện có mối liên hệ, tác động, chi phối lẫn nhau, đôi khi một diễn biến/hoạt động nhỏ cũng có thể thay đổi vận mệnh của một quốc gia. Trên trường quốc tế, những hiệp ước và hiệp định chính trị là thứ có thể đem lại lợi ích hoặc cũng có thể là rủi ro cho một hoặc nhiều quốc gia liên quan. Nhìn lại lịch sử Việt Nam thời kỳ đương đầu với sự bành trướng, cai trị của thực dân Pháp cũng như công cuộc kháng chiến chống Mỹ, có thể thấy rõ tầm quan trọng cũng như tính quyết định của các hiệp ước và hiệp định. Những lần ký kết mang tính lịch sử ấy sẽ có điều gì cần bàn luận? Bối cảnh và bài học lịch sử nào sẽ được rút ra?
Sách sẽ là câu trả lời cho những ai đang tìm kiếm câu trả lời cho vấn đề trên. Các tác giả của cuốn sách, GS.TS. Nguyễn Văn Khánh (chủ biên), TS. Bùi Thị Hà, TS. Lê Văn Phong đã nghiên cứu, biên soạn một cách có hệ thống theo chiều lịch đại các hiệp ước, hiệp định theo thời gian từ Hiệp ước Versailles được ký vào cuối thế kỷ XVIII, đến các hiệp ước ký giữa Pháp với triều đình Nguyễn vào nửa sau thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Cuối cùng là các hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với Pháp và Mỹ vào năm 1954 và 1973. Đối với từng hiệp ước, hiệp định các tác giả cũng làm rõ bối cảnh lịch sử, quá trình chuẩn bị và thảo luận, đấu tranh và đàm phán để đi đến ký kết, nội dung cơ bản của hiệp ước và cuối cùng là ý nghĩa của từng hiệp ước/hiệp định đối với công cuộc đấu tranh giải phóng và giữ nước, bảo vệ và khôi phục nền độc lập dân tộc, cũng như những tác động đối với tiến trình phát triển lịch sử của Việt Nam.
Bên cạnh đó, cuốn sách cũng cung cấp đến bạn đọc toàn bộ văn bản các hiệp ước, hiệp định bằng cả tiếng Việt, tiếng Pháp, tiếng Anh, từ các nguồn lưu trữ tin cậy của Việt Nam, Liên hợp quốc và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Cùng với đó là tổng hợp tranh ảnh về các cuộc đàm phán và ký kết hiệp ước, hiệp định giữa đại diện của Việt Nam với đại diện của chính quyền Pháp và Mỹ. Từ đây, quý bạn đọc có thể tiện cho việc tra cứu và so sánh khi tìm hiểu và nghiên cứu về các hiệp ước, hiệp định này.
"Việt Kiệu Thư" là trước tác duy nhất hiện nay còn lưu giữ được của Lý Văn Phượng (1512 - 1542), một viên quan nhà Minh xuất thân khoa cử, nhận nhiệm vụ quản lý, giám sát các hoạt động quân đội, bao gồm luyện tập tuần phòng, bố trí đồn sở, các việc liên quan đến binh dịch tại Quảng Đông, Vân Nam. Bộ sách được hoàn thành vào tháng 6 năm Canh Tý niên hiệu Minh Gia Tĩnh thứ 19 (1540), trên cơ sở kết quả thu thập, khảo cứu nhiều nguồn tài liệu thư tịch sử chí, phương chí của các triều đại, từ Hán đến Minh, do các tác giả người Việt và Hán biên soạn.
Nguyên bản chữ Hán của "Việt Kiệu Thư" gồm 20 quyển, mà theo lời tự bạch của chính Lý Văn Phượng trong trước tác này: “Phượng nhân lúc việc quan nhàn rỗi chọn lọc rồi chia làm từng loại, được thành 20 quyển. Phần đầu nói về địa dư, phong tục, vật sản, ấy là xét về ngọn nguồn dân sinh. Tiếp đến là chiếu thư, chế, sắc, là trọng lời nói của vua vậy. Rồi kế đến là việc biên niên lập quốc, chế độ trước sau, ấy là chép việc thực vậy. Tiếp đến chép là thư sớ, di văn, là để cho tường tận vậy… Lại tiếp đến văn, phú, thi, từ, cùng là thần, thiếp của nước ấy hễ có một điều hay cũng được chép đủ, là để thấy phong tục hay dở ưa chuộng của một phương vậy. Hợp cả lại mà gọi sách ấy là "Việt Kiệu Thư".
Trong bang giao với quốc gia láng giềng thời trung đại, các vương triều phong kiến Trung Quốc luôn áp đặt những nguyên tắc bất bình đẳng, thể hiện tập trung qua hoạt động sách phong, triều cống rất phức tạp. Quan hệ bang giao Việt Nam - Trung Quốc thế kỷ XV-XVI được xem là giai đoạn điển hình cho tính chất phức tạp này.
Chính vì thế, "Việt Kiệu Thư" được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá là biên khảo có giá trị cao, vừa là một biên khảo địa phương chí, địa lý chí, vừa là một sử thư - tức ghi chép lịch sử… cung cấp thông tin cho việc nghiên cứu lịch sử quan hệ Trung - Việt, lịch sử Việt Nam. Sử liệu về Việt Nam giai đoạn triều Minh được "Việt Kiệu Thư" chép đầy đủ, chi tiết có nhiều nội dung có thể bổ sung cho những ghi chép sơ lược và khuyết thiếu của "An Nam truyện" trong "Minh sử" cũng như các bộ thư tịch cổ của Việt nam
Bỏ qua những hạn chế về quan điểm, góc nhìn, cách dùng từ ngữ của một tài liệu biên khảo do tác giả người Hán biên soạn, với mong muốn cung cấp cho quý độc giả một nguồn tư liệu quý, bao quát nhiều nội dung, từ diên cách hành chính, quá trình lập quốc, thay đổi triều đại, phong tục, sản vật, về các việc hình luật, binh chế, trường học... của Việt Nam, MaiHaBooks liên kết cùng Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành trọn bộ 3 tập (20 quyển) "Việt Kiệu Thư" và hân hạnh giới thiệu đến bạn đọc.
1. Việt Kiệu Thư (Trọn Bộ 3 Tập)
2. Bộ Bo Góc Bảo Quản
Lịch Sử Các Nền Văn Minh
Với việc tổng hợp diễn trình ngắn gọn về các nền văn minh từ cổ đại cho tới hiện đại, cùng hệ thống tranh ảnh minh họa đầy lôi cuốn, cuốn sách “LỊCH SỬ CÁC NỀN VĂN MINH” của Globerama sẽ cho bạn đọc thấy được mức độ cũng như tốc độ phát triển của loài người. Ra đời – Tồn tại – Cạnh tranh và Lụi tàn, công thức này dường như áp dụng cho tất cả những nền văn minh ấy, khi những cuộc chiến khốc liệt diễn ra trên khắp các lục địa của thế giới. Từ những nền văn minh cổ với sức mạnh phi thường như Viking, Ai Cập, Mông Cổ… cho tới những cường quốc ngày nay trên thế giới như Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản… liệu rằng có chung một số phận?
Con người – loài sinh vật duy nhất trên Trái đất có được điều kỳ diệu của tạo hóa, đã dùng trí khôn của mình bước lên những nấc thang cao nhất của sự tiến hóa. Từ ăn lông ở lỗ, trú ẩn trong những hang động tăm tối ngoài tự nhiên, loài người đã dần bước tới nền văn minh vũ trụ khi vượt ra khỏi môi trường sống của mình để tiến thẳng về không gian vô tận.
60 thế kỷ của sự phát triển, các nền văn minh trên khắp thế giới đều có một quá trình hình thành và lụi tàn. Và phần lớn khoảng thời gian đó đã bị vùi lấp bởi lớp bụi của quá khứ, ẩn mình trong những tàn tích như Kim tự tháp của người Ai Cập, những công trình cổ đồ sộ của người Hy Lạp, hay những dấu tích còn sót lại của cư dân Sumer, Lưỡng Hà, Maya… Với trình độ khoa học cao như hiện nay, người ta mới chỉ giải mã được số ít những thông tin, chữ viết của những nền văn minh ấy. Thế nhưng số ít ấy cũng đã là quá lớn để chúng ta hình dung ra được một bức tranh lịch sử trải dài từ thuở sơ khai của loài người.
Với việc tổng hợp diễn trình ngắn gọn về các nền văn minh từ cổ đại cho tới hiện đại, cùng hệ thống tranh ảnh minh họa đầy lôi cuốn, cuốn sách “LỊCH SỬ CÁC NỀN VĂN MINH” của Globerama sẽ cho bạn đọc thấy được mức độ cũng như tốc độ phát triển của loài người. Ra đời – Tồn tại – Cạnh tranh và Lụi tàn, công thức này dường như áp dụng cho tất cả những nền văn minh ấy, khi những cuộc chiến khốc liệt diễn ra trên khắp các lục địa của thế giới. Từ những nền văn minh cổ với sức mạnh phi thường như Viking, Ai Cập, Mông Cổ… cho tới những cường quốc ngày nay trên thế giới như Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản… liệu rằng có chung một số phận?
Hãy để cuốn sách mở ra những trang sách giúp bạn hiểu hơn về thế giới này, về những bức tranh của quá khứ, về những gì con người đã từng trải qua. Để đến khi lật trang cuối cùng và đóng cuốn sách lại, bạn sẽ vẫn giữ chặt nó trong tay và lưu giữ lại giữa vô vàn cuốn sách bạn đã đọc.
Cạnh Tranh Mỹ - Trung Trong Các Tổ Chức Quản Trị Toàn Cầu, Khu Vực Và Một Số Hàm Ý Đối Sách Của Việt Nam
Nhân loại ngày càng phát triển cũng đồng nghĩa với việc các quốc gia, các tổ chức ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an ninh của thế giới. Các tổ chức đa quốc gia điển hình như Liên Hợp Quốc tưởng chừng sẽ là một diễn đàn để các quốc gia cùng hợp tác, cùng phát triển và cùng đề phòng những mối an nguy còn tiềm tàng. Thế nhưng kể từ khi dịch bệnh Covid-19 diễn ra, chúng ta mới có cái nhìn cụ thể và sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa các cường quốc, cụ thể là Mỹ và Trung Quốc trong những “sân chơi” quy mô toàn cầu này!
Ấn phẩm “Cạnh tranh Mỹ - Trung trong các tổ chức quản trị toàn cầu, khu vực và một số hàm ý đối sách của Việt Nam” do TS. Mai Thị Hồng Tâm chủ biên, là một đề tài nghiên cứu cấp thiết về thực trạng quản trị toàn cầu, khu vực hiện nay trên thế giới. Sự phù hợp, sát sao và ứng biến nhanh chóng chính là yếu tố cần để các tổ chức quản trị toàn cầu, khu vực đối mặt với những nguy cơ và rủi ro về an ninh toàn cầu như lương thực, dịch bệnh, tài chính tiền tệ, năng lượng,… Thế nhưng lợi ích chung để đạt được những điều đó đã thực sự diễn ra chưa hay ngay trong chính những tổ chức lớn của thế giới vẫn tồn tại sự cạnh tranh ngầm giữa hai quốc gia được coi là 2 cực của thế giới hiện tại?
Xu hướng thế giới đa cực đã và đang có xu thế xuất hiện, các cường quốc mới nổi lên với các tiềm lực về kinh tế, quân sự chắc chắn sẽ tạo ra những ảnh hưởng đến các tổ chức quản trị toàn cầu, khu vực. Vậy nên Việt Nam cần nắm bắt tình hình để đưa ra những đối sách phù hợp để phát triển đất nước cũng như dung hòa mối quan hệ với các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là với Mỹ và Trung Quốc.
Chính Sách Đóng Cửa Của Nhật Bản Thời Kỳ Tokugawa
Năm 2023 là một năm đặc biệt đối với Việt Nam và Nhật Bản khi nó đánh dấu tròn 50 năm hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao. Trong nửa thế kỷ đó, ngành Nhật Bản học tại Việt Nam cũng từng bước được hình thành và bắt đầu phát triển với số lượng và chất lượng công trình nghiên cứu ngày càng nâng cao của các học giả trong nước. Và điển hình trong đó là những công trình nghiên cứu chuyên sâu của GS.TS. Nguyễn Văn Kim – chuyên gia hàng đầu về Nhật Bản học ở Việt Nam hiện nay.
Sakoku – Chính sách “tỏa quốc”/đóng cửa là một chủ đề nghiên cứu lớn về Nhật Bản xuyên suốt trong lịch sử của quốc gia này. Diễn ra trong hai thế kỷ (1639-1853) bởi Mạc phủ Edo, thế nhưng lại gây ra nhiều tranh cãi bởi tính phù hợp và tác động của nó đến nền kinh tế – chính trị của Nhật Bản. Tuy nhiên, trong tình hình chung của khu vực và xu thế văn hóa nội địa, liệu rằng Sakoku trong thời kỳ Tokugawa có thật sự là tiêu cực? Khi mà chính ngay sau đó Nhật Bản đã cải cách đất nước thành công trong thời đại Minh Trị. Liệu rằng chính sách tỏa quốc là một tiền đề căn bản để góp phần tạo dựng nền móng đất nước cho cuộc đại cải cách ở thời kỳ sau đó?
Những câu hỏi trên bạn đều sẽ được giải đáp trong ấn phẩm này của tác giả Nguyễn Văn Kim. Với những luận giải sâu sắc, những góc nhìn đa chiều về một Nhật Bản có nhiều biến động, cuốn sách không chỉ giúp bạn đọc thấu hiểu hơn về xứ Phù Tang, mà qua thông qua đó bạn cũng có thể nhận biết những đặc điểm chung cùng sự phát triển đặc thù của các nước phương Đông.
Vương Quốc Ryukyu Trong Hệ Thống Thương Mại Đông Á Thế Kỷ XV-XIX
Tồn tại 444 năm trong diễn trình lịch sử thế giới (1424-1867), đã từng có một Vương quốc Ryukyu nằm phía đông bán cầu với nền kinh tế - hải thương phát triển, ảnh hưởng tới nhiều quốc gia lân cận - đặc biệt là Trung Quốc, Nhật Bản và các nước Đông Nam Á.
Giới lãnh đạo thành Shuri đã có những nhìn nhận nhạy bén về chính trị - kinh tế giao thương trên thế giới để duy trì vương quốc của mình trên cán cân quyền lực, giảm thiểu những xung đột giao tranh. Chính điều này đã góp phần khiến cho quốc đảo trở thành một hiện tượng phát triển đặc biệt và hiếm có trong lịch sử Đông Á thời bấy giờ.
Với tác phẩm “Vương quốc Ryukyu trong hệ thống thương mại Đông Á thế kỷ XV - XIX”, tác giả - TS. Lê Thị Khánh Ly đã mở ra những góc tiếp cận mới nghiên cứu chuyên sâu về Vương quốc Ryukyu tại Việt Nam, trả lời cho những câu hỏi về một quốc đảo đã từng hưng thịnh rất nhiều năm về trước. Với 20 năm chuyên tâm khảo cứu và phân tích đánh giá, tác giả không chỉ đề cập tới địa kinh tế của Ryukyu, mà còn quan tâm tới những đặc sắc văn hóa của quốc đảo, đặt trong cả bối cảnh riêng lẫn bối cảnh chung khi Ryukyu đã sáp nhập và trở thành tỉnh Okinawa thuộc Nhật Bản.
Cuốn sách sẽ góp phần giúp bạn hiểu rõ thêm về lịch sử thế giới, định vị một quốc đảo với tư tưởng chính trị, phát triển kinh tế cấp tiến, cùng với đó là nền văn hóa đậm nét Á Đông mà cho tới bây giờ vẫn còn ghi lại dấu ấn.
Tuyển Tập Tranh Ảnh Lịch Sử Đông Dương Thuộc Pháp
Từ trước khi phương Tây đặt chân tới vùng đất Viễn Đông, Việt Nam nói riêng hay Đông Dương nói chung giống như những viên ngọc đang che giấu đi vẻ đẹp của chính mình. Bằng chứng là trước đó, không có nhiều các tư liệu phương Tây về những vùng đất phía Đông của thế giới.
Khi Pháp tiến hành khai phá và khai thác thuộc địa, Đông Dương nằm trong một hệ thống thuộc địa rộng lớn của Pháp, và nó rộng lớn đến nỗi chỉ sau các vùng đất thuộc đế quốc Anh. Từ Algeria, Maroc, Madagascar, Tây Phi và châu Phi xích đạo, các thuộc địa cũ ở châu Mỹ và Ấn Độ đều đã chịu ảnh hưởng của Pháp khá nhiều. Tuy nhiên, Đông Dương lại là một trường hợp đặc biệt, Đông Dương có những dấu ấn riêng có, khiến cho những nhà tư bản kia khao khát chiếm hữu.
Với sự phối hợp và trợ giúp từ nhiều tổ chức, cá nhân từ Pháp cho tới Việt Nam, cuộc Triển Lãm thuộc địa đã được tổ chức với những công trình lung linh dựng tạm trong công viên Vincennes. Và cả những tranh ảnh, những tấm hình ghi lại ký ức về Đông Dương cũng đã được trưng bày. Đặt ra một miền hồi tưởng cho những ai chiêm ngưỡng.
Cuốn sách “Tuyển tập tranh ảnh lịch sử Đông Dương thuộc Pháp” là ấn phẩm cho ta thấy một thời kỳ lịch sử đầy hấp dẫn ấy. Người Pháp đến Đông Dương với tất cả nguồn lực của họ, trên danh nghĩa “khai hóa văn minh”, những con người ấy đã làm những gì, họ là những ai, Đông Dương đã thay đổi ra sao? Nội dung và những tấm hình tư liệu quý giá trong ấn phẩm này sẽ là câu trả lời mà bạn muốn tìm kiếm. Ấn phẩm được in trên chất liệu giấy HC100, đem tới những hình ảnh rõ nét nhất phục vụ cho nhu cầu tìm hiểu văn hóa lịch sử của bạn đọc.
“Những bản đồ cũ, sách vở, tranh ảnh chân dung, tranh khắc, tranh dân gian, bản thủ bút, đã cố gắng làm sống lại quá khứ của nước Pháp tại châu Á”
Thiên Chúa Giáo Và Khoa Học Kĩ Thuật Phương Tây Trong Xã Hội Việt Nam-Trung Quốc Thế Kỉ XVI-XVIII (Sách Chuyên Khảo)
Qúa trình giao lưu và hội nhập văn hóa Đông – Tây vẫn luôn diễn ra một cách sôi nổi từ trong lịch sử cho tới hiện tại. Đặc biệt là sau các cuộc Phát kiến địa lý thế kỷ XV-XVI, khi kỹ thuật hàng hải có những tiến bộ nổi bật, cùng sự phát triển của chủ nghĩa tư bản phương Tây đã thúc đẩy quá trình này mạnh mẽ hơn nữa. Các quốc gia châu Âu đã hướng tầm mắt sang khu vực Viễn Đông với nhiều tham vọng về chính trị, xã hội và văn hóa. Vốn dĩ vì các quốc gia ở ở Đông bán cầu có những tiềm lực mạnh mẽ về của cải, sản vật và đặc biệt nhất là con người. Dựa trên lý tưởng đó, những luồng thổi văn hóa mới đã theo chân các tàu buôn phương Tây đến với những vùng đất màu mỡ phương Đông, điển hình là Việt Nam và Trung Quốc. Từ đó mở đầu cho công cuộc truyền bá một tư tưởng mới, một đức tin mới vào hai nền văn hóa cổ phương Đông – đó chính là Thiên Chúa giáo – một trong những tôn giáo lớn nhất trên thế giới hiện nay.
Công trình nghiên cứu “THIÊN CHÚA GIÁO VÀ KHOA HỌC KỸ THUẬT PHƯƠNG TÂY TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM – TRUNG QUỐC THẾ KỶ XVI-XVIII” được xuất bản trên cơ sở phát triển từ luận án Tiến sĩ, mà TS. Trương Anh Thuận bảo vệ thành công tại Học viện Lịch sử và Văn hóa, Đại học Sư phạm Hoa Trung (Vũ Hán, Hồ Bắc, Trung Quốc).
Cuốn sách đem đến cho bạn đọc những góc nhìn cụ thể và chi tiết về quá trình truyền giáo của các giáo sĩ phương Tây khi đặt chân đến Việt Nam và Trung Quốc trong khoảng thời gian thế kỷ XVI – XVIII. Các dòng tu với sứ mệnh từ Tòa thánh đã ảnh hưởng đến các giai cấp, đời sống nhân dân của hai nước Việt – Trung như thế nào? Thái độ của giai cấp cầm quyền hai nước đối với loại hình tôn giáo mới này ra sao? Ủng hộ hay phản đối? Tất cả đều đã được TS. Trương Anh Thuận đề cập rõ nét trong cuốn sách này. Bên cạnh đó, vì sao các nhà truyền giáo lại chọn lĩnh vực khoa học kỹ thuật như thiên văn học hay y học để “làm thân” với giới chức cầm quyền của hai quốc gia Việt Nam, Trung Quốc, phải chăng có mục đích chính trị hay chỉ đơn thuần xuất phát từ mong muốn mượn sức mạnh từ họ để tiến hành quá trình “Thiên Chúa giáo hóa”? Bạn đọc hãy cùng tìm hiểu rõ hơn về ấn phẩm để có được câu trả chính xác nhất!
Truyện Kiều (Đoạn Trường Tân Thanh)
“Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân”
Truyện Kiều – dù cho đã trải qua hàng trăm năm lịch sử, nhưng vẫn luôn xứng với danh xưng là kiệt tác của văn học Việt Nam. Bằng tài năng và học thức sâu rộng của mình, Đại thi hào Nguyễn Du đã viết nên cả một “đời người” dưới những câu thơ lục bát. Chính vì vậy, cho nên, đến hàng trăm năm sau, tác phẩm vẫn có sức sống bền bỉ qua những câu chuyện kể của người dân, hay trong các đề tài nghiên cứu của các học giả đương thời.
Đã nhiều lần Truyện Kiều được phiên âm ra chữ Nôm, chữ Quốc ngữ, ấy vậy nhưng để truyền tải hết cái hồn của kiệt tác này thì dường như vẫn còn có sự thiếu sót của các bản dịch phổ thông. Chính vì vậy, nhằm tái hiện lại một áng thơ truyền kỳ, đem tới cho độc giả những góc nhìn sâu sắc hơn về Truyện Kiều, qua hệ thống chú giải, diễn giải nguyên chú khoa học và đầy đủ, MaiHaBooks xin giới thiệu tới bạn đọc ấn phẩm “TRUYỆN KIỀU (ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH)” – do Kiều Oánh Mậu khảo đính, chú thích; Kiều Thu Hoạch phiên âm, chú giải.
Bản Kiều Nôm do Kiều Oánh Mậu khảo đính, chú thích có tên Đoạn trường tân thanh 斷腸新聲, do Đào Nguyên Phổ mang từ Huế ra Bắc năm 1898, đưa làm quà cho Kiều Oánh Mậu. Từ bản Nôm này, Kiều Oánh Mậu đã khảo cứu, chú thích, nghiền ngẫm so sánh văn bản nhiều năm rồi mới giao cho thợ khắc in vào năm 1902. Văn bản Truyện Kiều Nôm của Phó bảng Kiều Oánh Mậu là bản “đã thành”, qua tay GS.TS. Kiều Thu Hoạch, Truyện Kiều Quốc ngữ “bản Kinh” là văn bản “đang thành”, cả trên phương diện phiên âm, chú giải chuẩn theo bản Nôm, với trình độ chuyên nghiệp cao, đồng thời bổ sung, hoàn chỉnh các diễn giải nguyên chú, cũng như mở rộng cách đọc so sánh “liên văn bản” với bản gốc Thanh Tâm Tài Nhân, theo yêu cầu đời sống học thuật hiện đại, trở thành bản Kiều Quốc ngữ hoàn hảo của thế kỷ XXI.
Xuân Thu Sử Thi Bắc Kỳ - Bìa Cứng
Ký ức - Chiến tranh - Đông Dương, dù trải qua bao nhiêu năm tháng lịch sử, ta cũng không thể nào quên được một thời kỳ đầy khói lửa. Nhưng lịch sử không phải chỉ có màu đỏ của máu, của lửa, màu đen của khói, của cát bụi, lịch sử còn có những bức tranh chứa đựng màu sắc của riêng nó, tươi sáng hơn, hoài niệm hơn! Như câu chuyện về bà chủ đồn điền Eliane Devries hay viên trung úy Jean Baptiste (phim Đông Dương của đạo diễn Régis Wargnier, 1992), họ đều có những lý do rất “con người” để gắn bó máu thịt và luyến tiếc xứ sở này.
"Xuân Thu Sử thi Bắc Kỳ" chính là một tác phẩm mang tinh thần như vậy, khi cuốn sách là sự tổng hòa, là sự giao thoa của triết lý, văn hóa Đông - Tây do vị Giáo sư người Pháp - Pierre Foulon chắp bút. Đây có lẽ là một cuốn sách “lạ lùng”, lạ lùng khi 4 chương của cuốn sách được gọi tên bằng 4 mùa xuân - hạ - thu - đông. Lạ lùng khi lời dẫn đầu được viết bằng một phong cách rất thơ - “Lời ngỏ bên thềm” (Paroles sur Le Perron). Và thật lạ lùng khi P. Foulon đã đem đến một cuộc đối thoại vô hình trong tưởng tượng (Palinodies) của hai nhà hiền triết Đông - Tây là Khổng Tử và Socrate.
Bốn chương của cuốn sách được dựa trên cảm hứng “triết học tứ quý” của Kinh Xuân Thu và sách Lễ ký của triết học Khổng Tử. Nhưng điều P. Foulon bàn luận tới có lẽ cởi mở hơn vì Xuân thu sử thi Bắc Kỳ chứa đựng những trang sách hấp dẫn về khía cạnh tôn giáo của lễ hội, trong khi nhà hiền triết của nước Lỗ cho rất ít thông tin về đời sống tín ngưỡng trong “Xuân Thu” của mình. Từ những vấn đề đầy lý luận như thơ ca, triết học, nghệ thuật dân gian, chính trị, thời cuộc, cho tới các khía cạnh gắn liền với hiện thực như lối sống, nghi lễ, dịch bệnh, công việc đồng áng (tịch điền) hay những chủ đề “siêu thực” về “cái chết”, “bóng đêm” đều được tác giả phân tích sâu sắc.
Nếu nói cả cuốn sách này là một sự tổng hòa về nghệ thuật thì cũng không sai, khi việc thiết kế trình bày sách được thực hiện bởi chính họa sĩ Tô Ngọc Vân - một trong bốn tứ trụ của nền hội họa Việt Nam. Tranh bìa được họa sĩ Nguyễn Tiến Lợi làm từ tranh khắc dân gian thường bày bán trong dịp giáp Tết trên hè phố và chợ Bắc Kỳ với motif Tranh Tam Đa quen thuộc, gợi lên một dấu ấn quen thuộc từ lịch sử cho bất cứ ai sở hữu.
Ấn phẩm thứ hai thuộc bộ sách “Huế kỳ bí” có tên “Lăng Gia Long” - tác giả là Linh mục Léopold Cadière, với phần thơ của Charles Patris. Ngay sau khi Hội những người bạn Cố đô Huế được thành lập, L. Cadière đã tham gia Dự án nghiên cứu lập bản đồ lăng mộ tang lễ vùng phụ cận Huế và hội này đã sớm có được những con số tổng hợp đầu tiên rất ấn tượng. Năm 1928, trên tập san Đô thành hiếu cổ (tên gọi quen thuộc hơn của tập san Những người bạn Cố đô Huế), chính L.Cadière đã công bố bài viết đầu tiên về chủ đề “Lăng mộ của người An Nam trong vùng phụ cận Huế”.
Ngược về thượng nguồn qua ngả đồi Nam Giao, ngang qua quần thể lăng Thiệu
Qua từng chương của cuốn sách, bạn đọc sẽ hiểu hơn về vị Hoàng đế đầu tiên của triều Nguyễn, cùng những quan niệm nhân sinh quan mà chính Gia Long đã gửi vào quần thể lăng tẩm mình. Bên cạnh đó “Lăng Gia Long” không những là một khảo cứu tỉ mỉ, mà nó còn mang giá trị ứng dụng rất cao, khi tác giả tập sách với ngòi bút khoáng đạt và lịch lãm của mình đã hướng tới một cuốn sách mà ngày nay ta quen gọi là sách “Hướng dẫn du lịch” - rất chuyên nghiệp - và phục vụ mục tiêu “du lịch tâm linh”.
Qua thiên khảo cứu này của L. Cadière, bạn đọc có thể biết thêm những “sử liệu” sống động liên quan đến một trong những lăng tẩm lớn nhất, tiêu biểu nhất của xứ Huế: Lăng Gia Long, cũng như chúng ta có dịp được nghiệm sinh sâu sắc hơn trong “đời sống tâm linh”, thế giới bên kia của các đấng đế vương triều Nguyễn và những giá trị văn hóa nghệ thuật vật thể hay phi vật thể ở không gian đặc biệt này quanh Cố đô Huế.
Đã từ lâu, Huế luôn mang trong mình những nét đặc trưng vốn có, đó là vẻ đẹp thơ mộng, nhẹ nhàng và đằm thắm. Thế nhưng sức hấp dẫn của Huế không chỉ đến từ vẻ đẹp bên ngoài, mà nó còn đến từ sự thôi thúc khám phá cho đến tận cùng đối với bất cứ ai trót say đắm. Có lẽ vậy mà ngay cả với những trí thức người Pháp, khi buổi đầu tới Việt Nam, đều khao khát muốn hiểu được con người và văn hóa Huế. Đây cũng là một trong những lý do để xuất hiện một hiện tượng văn hóa - xã hội độc đáo, đó là sự ra đời và phát triển của Hội những người bạn Cố đô Huế và cơ quan ngôn luận của nó là bộ tạp chí đồ sộ Tạp chí Đô thành hiếu cổ
Đây cũng chính là nơi mà các tác phẩm về Huế do các học giả, trí thức người Pháp chắp bút ra đời. Với sự đầu tư nghiêm túc và trải nghiệm trực tiếp, họ hiểu, họ yêu mến và họ mong muốn truyền tải đi những giá trị văn hóa đặc sắc của vùng đất này.
Với ý nghĩa đó, MaiHaBooks đã nỗ lực ấn hành bộ sách “Huế kỳ bí” với 3 ấn phẩm đặc sắc, được dịch thuật và xuất bản lần đầu tiên dựa trên những tư liệu quý giá đăng trên Tạp chí Đô thành hiếu cổ và từ các công trình nghiên cứu chuyên sâu, nhằm mang đến và giới thiệu tới độc giả nét đẹp bí ẩn của vùng đất Huế xưa, trải dài từ những hàng cây, lăng tẩm tĩnh mịch cho tới một kinh thành đầy cổ kính, dưới góc nhìn của những trí thức Pháp ưu tú.
Ấn phẩm mở đầu cho bộ sách “Huế kì bí” có tên: “Huế điều kỳ bí (Huê la mystérieuse)”. Nội dung của cuốn sách dù dưới ngòi bút của một ông “quan cai trị” (Loius Chochod) nhưng chắc hẳn sẽ gây nhiều bất ngờ với bạn đọc bởi nội dung phong phú, thậm chí “lạ lùng” khi tác giả mở đầu bằng những khái niệm rất cơ bản của Khổng giáo và Nho học; từ thế giới quan, nhân sinh quan, vũ trụ luận của các nhà hiền triết Trung Hoa cổ đại. Với 5 chương phân tích và lý giải, khám phá các hiện tượng từ con người, xã hội, sự sống, dấu ấn tâm linh, cuộc sống thế tục cho tới những chuyển biến kinh tế, xã hội, tri thức đầu tiên của xứ Huế theo hướng “hiện đại hóa”, Loius Chochod đã cho ta biết về những giá trị văn hóa tinh thần của xứ Huế mà chúng ta mãi vẫn muốn tìm kiếm...
Những Người Bồ Đào Nha Tiên Phong Trong Lĩnh Vực Việt Ngữ Học (Cho Đến 1560)
“Những người Bồ Đào Nha tiên phong trong lĩnh vực Việt ngữ học (cho đến 1650)” là cuốn sách được biên soạn bởi GS. Roland Jacques – một học giả, nhà khoa học nổi tiếng người Pháp. Cuốn sách luận bàn tới tên tuổi cùng sự đóng góp của những người Bồ Đào Nha đầu tiên trên con đường học tập, thiết lập và truyền bá ngôn ngữ La Tinh cho người Việt.
Đa số người Việt hiện nay đều chỉ biết tới Alexandre de Rhodes như là người duy nhất và đầu tiên sáng tạo ra bộ chữ Quốc ngữ. Chỉ một số ít quan tâm tới ngôn ngữ học biết tới những tên tuổi có đóng góp khác cho ngôn ngữ Việt như Gaspa de Amaral hay Francisco de Pina. Và đây chính là sự thiếu sót trong việc phổ cập tri thức.
Ấn phẩm không chỉ mang đến cho bạn đọc những câu chuyện cụ thể về vai trò thật sự của Alexandre de Rhodes trong “lòng một công trình tập thể” đồ sộ này mà còn đề cập đến nhiều nguồn tài liệu viết tay khác chưa được xuất bản của giáo sĩ Francisco de Pina – người thầy dạy chữ tiền Quốc ngữ cho A. de Rhodes – hoặc các tài liệu khác viết và nghiên cứu về ông.
“Những người Bồ Đào Nha tiên phong trong lĩnh vực Việt ngữ học (cho đến 1650)” chắc chắn sẽ là nguồn tư liệu hữu ích và cần thiết cho những người quan tâm tìm hiểu lĩnh vực Việt ngữ học buổi sơ khai.
Những Người Nga Đầu Tiên Đến Việt Nam
Tại nước Nga, sự thức tỉnh mối quan tâm đối với Đông Dương là vào những năm 80 – 90 của thế kỷ XIX, khi vị trí của nước Pháp trên thực tế đã được củng cố tại khu vực này. Sang những năm đầu thế kỷ XX, ở Nga bắt đầu xuất hiện nhiều hơn những bài báo và sách riêng biệt chứa đựng thông tin về các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Các ấn phẩm này đã in khá định kỳ những trích đoạn từ nhật ký của các nhà du lịch, ghi chép của các sĩ quan hải quân và những bài báo của các nhà bác học về Việt Nam.
Trong số bút ký, mẩu tin, báo cáo ấy, nhà Việt Nam học người Nga Anatoli Socolov đã sưu tầm, tuyển chọn những bài đặc sắc nhất, tập hợp thành cuốn sách Những người Nga đầu tiên đến Việt Nam (Phóng sự và bút ký thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX). Ấn phẩm là một công trình độc đáo về nguồn cội mối quan hệ hữu nghị Nga – Việt.
Lê Triều Chiếu Lệnh Thiện Chính
Để tìm hiểu, nghiên cứu về luật pháp, lễ nghi của một triều đại phong kiến, người ta thường nhắc đến những bộ Hội điển.
Từ thời Lê Trung Hưng cho đến khi thời Tây Sơn, các luật lệ của nước ta cũng được ghi chép dưới hình thức Hội điển trong pho sách; hiện nay còn di lưu có thể kể đến ba bộ sách: Quốc triều chiếu lệnh thiện chính, Quốc triều chiếu lệnh thiện chính tập và Quốc triều chiếu lệnh thiện chính tập tục biên (còn gọi là Quốc triều Hội điển và Tục Hội điển), Chỉnh Hoa chiếu thư.
Lê Triều chiếu lệnh thiện chính là ấn phẩm được Trường Luật Sài Gòn phiên dịch từ bản chép tay số A. 257 cuốn Quốc triều chiếu lệnh thiện chính của Trường Viễn Đông Bác Cổ - một tài liệu được coi như đầy đủ và đáng tin hơn cả về các điều lệ dưới triều Lê Trung Hưng. Cuốn sách ghi chép các chiếu lệnh ban hành trong thời gian 1619-1705, phân loại làm 7 quyển theo thẩm quyền của 6 bộ đương thời, trong mỗi quyển trình bày theo thứ tự niên hiệu của các triều vua:
Quyển Nhất: Chiếu lệnh thuộc về bộ Lại
Quyển Nhì: Chiếu lệnh thuộc về bộ Hộ
Quyển Ba: Chiếu lệnh thuộc về bộ Lễ (phần nhất)
Quyển Tư: Chiếu lệnh thuộc về bộ Lễ (phần nhì)
Quyển Năm: Chiếu lệnh thuộc về bộ Binh
Quyển Sáu: Chiếu lệnh thuộc về bộ Hình
Quyển Bảy: Chiếu lệnh thuộc về bộ Công
Tuy nhiên, cũng chính vì tài liệu của Trường Viễn Đông Bác Cổ chỉ là một tài liệu chép tay, không sao tránh được các sự xuyễn mậu; cho nên cuốn sách đã được in kèm cả bản chữ Hán để tiện cho bạn đọc kê cứu, góp ý bổ sung cho những điểm khiếm khuyết.
Có thể nói, Lê Triều Chiếu Lệnh Thiện Chính là một pho sách mà tài liệu phong phú và phiên tạp như một quyển hội điển. Cuốn sách trình bày các chiếu lệnh, những giải pháp mà nhà cầm quyền đương thời đã áp dụng cho tất cả các hoạt động xã hội, kinh tế và chính trị của quốc gia, phản chiếu tình trạng của dân tộc dưới mọi khía cạnh trong một thời gian non một thế kỷ.
Binh Pháp Tinh Hoa
Luận giải 13 Thiên Binh Pháp Tôn Võ Tử - Đối chiếu các nguyên lý hành binh và các trận đánh lớn của lịch sử Đông - Tây hiện đại và cận đại.
Binh Pháp Tinh Hoa là cuốn sách có giá trị ứng dụng rộng rãi không chỉ trong quân đội, kinh doanh, thể thao mà còn trong nhiều lĩnh vực khác của cuộc sống. Nó phù hợp cho những người đòi hỏi phải có kỹ năng hoạch định chiến lược, quản lý và lãnh đạo ở khắp nơi trên thế giới.
Thậm chí những chỉ dẫn khôn ngoan trong việc hẹn hò hay trong các mối quan hệ cũng được đúc kết trong cuốn sách binh pháp cổ của Tôn Tử.
Chính Sách Tôn Giáo Thời Tự Đức (1848-1883)
Chính sách tôn giáo dưới triều Nguyễn, đặc biệt dưới thời Tự Đức là giai đoạn để lại những dấu ấn sâu sắc, có vị trí quan trọng trong chính sách đối với tôn giáo thời phong kiến ở Việt Nam. Có thể nói, triều Nguyễn thực sự làm chủ và hoàn thiện chế độ trong khoảng bốn triều vua đầu. Những đường hướng chính của chính sách quản lý xã hội nói chung, chính sách tôn giáo nói riêng của triều Nguyễn đã cơ bản được hình thành và phát triển ở giai đoạn này.
Thời Tự Đức là tâm điểm đáng chú ý nhất khi nghiên cứu về chính sách tôn giáo triều Nguyễn, đây là giai đoạn hết sức phức tạp, triều đình phải đối phó với thực dân phương Tây cũng như tôn giáo do họ mang tới. Nghiên cứu chính sách tôn giáo dưới thời Tự Đức sẽ góp phần làm sáng tỏ câu hỏi dưới triều vua này đã giải quyết vấn đề tôn giáo như thế nào, đâu là những cố gắng cần ghi nhận và nguyên nhân nào dẫn đến những thất bại trong chính sách tôn giáo, những hệ quả xã hội và những bài học kinh nghiệm cần rút ra.
Những năm gần đây, hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng trở nên đa dạng, phong phú, thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Tuy nhiên, vấn đề tôn giáo ở nước ta vẫn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp, có lúc và có nơi trở thành điểm nóng. Thực tiễn sôi động đó đòi hỏi nhận thức về tôn giáo phải luôn đổi mới cho phù hợp với thời đại. Vì vậy, việc nhìn nhận và đánh giá lại những tác động và ảnh hưởng của chính sách tôn giáo thời Tự Đức dưới cái nhìn đổi mới để hiểu được một phần lịch sử của chính sách tôn giáo, những kinh nghiệm và bài học từ chính sách đó đối với cuộc sống hôm nay là một việc làm cần thiết.
Từ đó, cuốn “CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO THỜI TỰ ĐỨC (1848-1883)” ra đời như là một sự bổ sung cần thiết cho việc bổ sung, cải cách những chính sách tôn giáo để áp dụng với đương thời. Hiện cuốn sách đã có mặt tại cửa hàng, hãy nhanh tay liên hệ để sở hữu nhé.
Hệ Thống Cơ Quan Giám Sát Triều Nguyễn (1802-1885): Từ Thiết Chế, Định Chế Đến Thực Tiễn
Sau nhiều biến cố thăng trầm, đến năm 1802 Nguyễn Ánh giành được chiến thắng trước nhà Tây Sơn lập ra vương triều Nguyễn và mở đầu giai đoạn trị và kéo dài 143 năm của triều đại quân chủ cuối cùng ở Việt Nam. Trong thời gian trị vì, 4 vị vua đầu của triều Nguyễn, từ Gia Long, Minh Mạng đến Thiệu Trị, Tự Đức đã dày công xây dựng bộ máy nhà nước quân chủ tập quyền vững mạnh. Kết quả, so với các triều đại quân chủ Việt Nam trước đó, trong hơn 8 thập niên đầu, triều Nguyễn đã xây dựng được bộ máy nhà nước khá hoàn chỉnh từ trung ương đến địa phương. Bộ máy nhà nước của triều Nguyễn được xây dựng trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các bộ máy nhà nước quân chủ Việt Nam trước đó và nhà Thanh (Trung Quốc) đương thời. Trải qua quá trình hoạt động, bộ máy nhà nước của triều Nguyễn thời kỳ độc lập tự chủ (1802-1885) đã có những đóng góp nhất định. Một trong những nguyên nhân góp phần giúp cho triều Nguyễn có được những đóng góp trên đó là triều đại này đã xây dựng, vận hành một hệ thống cơ quan giám sát khá hoàn chỉnh và hiệu quả.
Trong quá trình ra đời, tồn tại và phát triển, các cơ quan giám sát của triều Nguyễn như: Viện Đô sát, Lục khoa và Giám sát ngư sử của 16 đạo đã có những đóng góp lớn, góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương cũng như ổn định xã hội và phần nào đảm bảo quyền, lợi ích của dân chúng.
Đám Ma Tôi
"Đám ma tôi" được nhà xuất bản Tân Việt ấn hành lần thứ nhất vào tháng 11 năm 1940, khi thi sĩ Đinh Hùng vừa mới 20 tuổi. Song nhiều ý kiến cho rằng, có thể tập văn xuôi này được ông viết sớm hơn hoặc có ý định viết từ mấy năm trước đó.
Nội dung "Đám ma tôi" thể hiện cách nghĩ của chàng trai trẻ đối với đời sống xung quanh, về quan niệm sống - chết ở đời. Điều đặc biệt là thay vì chọn làm người sống để nói về người chết như cách tư duy thông thường, Đinh Hùng làm ngược lại, chọn làm người chết để nói đến “từng những đời sống rải rác ở đây, ở đó, từng những cuộc đời chiêm bao”.
Cụ thể, trong tập văn xuôi, thi sĩ Đinh Hùng thể hiện câu chuyện người con trai 17 tuổi kể trong lúc cậu đang nằm chết, cậu chết đi trong một buổi chiều khi còn là đứa trẻ ngây thơ. “Tôi chết nằm im trên giường, hai tay buông xuôi, mắt nhắm nghiền, ngực không còn thoi thóp.” Chết là việc thản nhiên với cậu bởi có sống ắt sẽ có chết, điều đáng mừng là cậu không phải sống đến tám mươi năm trời ngục thất như lời của ông thầy tướng năm xưa.
Bằng giọng văn giễu cợt không chút kiêng kỵ trong “Đám ma tôi”, Đinh Hùng đã sáng tác một bài thơ chia ly “để thấy lòng mình đơn chiếc”, “vẽ phác bóng một rừng người qua mắt để trông, nhìn vài cảnh tượng hay hay... Tôi sống trước để mà cảm trước, tôi chết từ khi đang sống để hiểu thêm ý nghĩa đời này”.
Đường Vào Tình Sử
Đinh Hùng (1920-1967) là một nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. Ngoài việc ký tên thật Đinh Hùng, ông còn dùng bút hiệu Thần Đăng khi làm thơ châm biếm và Hoài Điệp Thứ Lang khi viết tiểu thuyết.
Tên tuổi của Đinh Hùng đương thời ông phần nào được kiểm chứng bởi thực tế ông là một trong số ít văn nghệ sĩ có mặt trong cuốn "Mười khuôn mặt văn nghệ" (xuất bản lần thứ nhất năm 1970) của Tạ Tỵ, bên cạnh một số tên tuổi lẫy lừng của văn học nghệ thuật Việt Nam trong thế kỷ 20 như Văn Cao, Nguyễn Tuân, Nguyễn Bính, hay Vũ Hoàng Chương.
Nông thôn Việt Nam là mảng đề tài không mới, đã được giới sử học nghiên cứu sâu trong nhiều thập kỷ. Trong điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã hội Việt Nam, vấn đề này, cho đến nay, vẫn còn nguyên tính thời sự. Việc nhìn nhận lại quá trình hình thành và phát triển của nông thôn và nông nghiệp Việt Nam cũng như các công trình nghiên cứu, các nhận thức khoa học về vấn đề quen thuộc nhưng phức tạp này, xét thấy là rất cần thiết.
Trên tinh thần đó, Viện Sử học phối hợp với MaiHaBooks và Nhà xuất bản Khoa học Xã hội tái bản bộ sách Nông thôn Việt Nam trong lịch sử. Ra đời cách ngày ngay gần nửa thế kỷ, những chuyên đề về lịch sử nông thôn Việt Nam không tránh khỏi có nhiều điểm khác với những nghiên cứu gần đây về phương pháp cũng như quan điểm và nhận thức lịch sử. Do đó, việc tái bản bộ sách này mang ý nghĩa giới thiệu về một chặng đường nghiên cứu nông thôn, nông nghiệp Việt Nam của giới sử học nước nhà. Đối với đông đảo độc giả, chúng tôi hy vọng bộ sách sẽ là nguồn tư liệu tham khảo có giá trị, chứa đựng nhiều tri thức bổ ích về nông thôn, nông nghiệp Việt Nam.
Bộ sách Nông thôn Việt Nam trong lịch sử gồm 2 tập, kết hợp các phương pháp nghiên cứu liên ngành như lịch sử, xã hội học, tâm lý học đã tái hiện một bức tranh rộng lớn, đa chiều về làng xã Việt Nam từ kinh tế đến chính trị, từ văn hóa vật chất đến văn hóa tinh thần… Những ưu điểm và hạn chế, những mặt mạnh và điểm yếu của làng xã, nông thôn, nông nghiệp cũng như của các vấn đề liên quan, chi phối đến quá trình vận động và phát triển của nó sẽ góp phần vào nhận thức và kinh nghiệm xây dựng và quản lý nông thôn Việt Nam hiện nay. Những tri thức này đặc biệt có giá trị và tính thời sự đối với sự phát triển của phong trào “nông thôn mới”, xây dựng nông thôn giàu đẹp, tiến bộ và bảo lưu các giá trị truyền thống tốt đẹp.
Tú Xuất
Cậu Tú tên Xuất, người làng Chuông, con cụ Đốc Phương Trung. Bình sinh là người có trí tuệ phi thường, lại là dòng dõi trâm anh, nên Tú Xuất đã sớm bác lãm kinh sử, biện luận hùng hồn, trí mưu mẫn tiệp. Ấy vậy, Tú Xuất lại nổi tiếng một thời với những chuyện ngang tàng chơi ngông mà dân chúng cho là những chuyện “táo trời” và “bạo thiên nghịch địa”.
Những câu chuyện về Tú Xuất tuy nhiều, nhưng chủ yếu ở dạng truyền khẩu. Vì có nhiều nét tương đồng với mô-típ chuyện khôi hài, chuyện lỡm dân gian như Trạng Quỳnh, Trạng Lợn… mà trong suốt mấy mươi năm, những mẩu truyện ghi chép về Tú Xuất đã bị coi là truyện dân gian của tác giả khuyết danh.
Cách đây 15 năm, trong một hội thảo khoa học, người ta đã “trả lại” cho những tập truyện về Tú Xuất một tác giả thực sự, đó là nhà văn Động Giang Nguyễn Nam Thông - một cái tên đã lưu lạc suốt hơn 70 năm giữa đời cười. Viết về Tú Xuất lần đầu năm 1930, Nguyễn Nam Thông dành một lòng ngưỡng mộ và cảm thông với tài năng và thân phận của nhân vật đặc biệt này. Nhà văn dày công biên soạn, sắp xếp các mẩu truyện một cách có ý đồ và khắc họa nhân vật đầy sống động mà không làm mất đi văn phong chân thực của thời đại.
Nằm trong Tủ sách Di sản Việt Nam, MaiHaBooks trân trọng giới thiệu tới quý độc giả tập truyện ngắn Tú Xuất, in theo bản in năm 1930 của tác giả Động Giang Nguyễn Nam Thông. Khác với những lần tái bản trước, ở lần xuất bản này, MaiHaBooks đã bổ sung thêm 7 bức tranh minh họa nhân vật Tú Xuất của cố họa sĩ Ngô Mạnh Quỳnh và cố họa sĩ Mỹ Quan in trên Tạp chí Indochine – ngày 3/9/1942.
Hy vọng sự bổ sung này sẽ giúp độc giả hình dung được rõ nét hơn về một nhân vật nổi tiếng nước Nam một thời!
Sách kỹ năng sống, Sách nuôi dạy con, Sách tiểu sử hồi ký, Sách nữ công gia chánh, Sách học tiếng hàn, Sách thiếu nhi