The fiftieth Anniversary Edition of the groundbreaking international bestseller that has shown millions of readers how to achieve rich, productive lives by developing their hidden capacities for love
Most people are unable to love on the only level that truly matters: love that is compounded of maturity, self-knowledge, and courage. As with every art, love demands practice and concentration, as well as genuine insight and understanding.
In his classic work, The Art of Loving, renowned psychoanalyst and social philosopher Erich Fromm explores love in all its aspects—not only romantic love, steeped in false conceptions and lofty expectations, but also brotherly love, erotic love, self-love, the love of God, and the love of parents for their children.
Nghệ Thuật Tâm Thức
THÔNG TIN TÁC GIẢ:
Erich Fromm (1900-1980) là một nhà tâm lý học xã hội, nhà phân tâm học, xã hội học, triết gia nhân văn và nhà hoạt động xã hội người Do Thái. Ông tới định cư ở Mỹ vào thời kỳ Đức Quốc xã. Ông đi theo trường phái lý thuyết phê phán Frankfurt và có nhiều nghiên cứu về sự tương tác giữa tâm lý học và xã hội, đồng thời từng giữ nhiều chức danh giáo sư về tâm lý học ở cả Mỹ và Mexico vào giữa thế kỷ XX.
Ông thường được coi là một trong những nhà phân tâm học có ảnh hưởng và nổi tiếng nhất ở Mỹ, và các tác phẩm của ông đã bán được hàng triệu bản trên khắp thế giới, dịch ra nhiều ngôn ngữ.
TÓM TẮT NỘI DUNG:
Tâm trí vô thức hay gọi ngắn gọn là vô thức, bao gồm các quá trình trong tâm trí xảy ra tự động. Hiểu đơn giản là các quá trình này xảy ra phía bên dưới bề mặt ý thức. Các thí nghiệm chứng minh thực tế cho thấy rằng, vô thức bao gồm các cảm giác bị kìm nén, phức cảm, ám ảnh và ham muốn. Những khái niệm này được nhà thần kinh học người Áo Freud phổ biến. Có thể nói, quá trình vô thức sẽ biểu hiện trong những giấc mơ ta thường thấy trong cuộc sống hằng ngày. Ẩn ức, kìm nén sâu kín trong vô thức sẽ bộc lộ trong những giấc mơ của chúng ta. Đôi khi những giấc mơ kỳ lạ, quái đản khiến chúng ta cảm thấy khó hiểu, không có cách nào lý giải.
Phần ý thức của chúng ta chỉ là ba phần nổi của tảng bang trôi, đương nhiên 7 phần còn lại chính là vô thức. Trong tâm lý học, vô thức là một trong những vấn đề quan trọng, có sức chi phối mạnh mẽ đến sức khỏe, hoạt động thường ngày của chúng ta. Giả sử, nếu ý thức và vô thức hoạt động không đồng bộ, bài toán ý thức sẽ không giống bài toán ở vô thức. Kết quả bài toán ở phần ý thức sẽ không giúp bạn hạnh phúc mà bạn phải tự phân tích được phần vô thức của mình thì mới có thể mang tới sinh lực sống cho chính bản thân mình.
Nghiên cứu về vô thức, ý thức mang ý nghĩa then chốt và quan trọng trong lĩnh vực tâm lý học nói chung và phân tâm học nói riêng. Những nhà tâm lý học nổi tiếng như Freud, Carl Jung đã bày tỏ quan điểm của mình về ý thức, vô thức, cái tôi, giấc mơ… thông quan những công trình quan trọng bậc nhất thế kỷ. Ngoài những tên tuổi đáng kính kể trên có thể kể tới Erich Fromm ông được xem là một trong những nhà phân tâm học nổi tiếng của Hoa Kỳ.
Cuốn sách Nghệ thuật tâm thức của ông chia sẻ cho chúng ta về nghệ thuật để làm đồng bộ hoạt động giữa ý thức và vô thức, nhờ đó giúp cho chúng ta đạt được trạng thái hiện hữu vẹn toàn, loại bỏ được những hư hại, đang đục khoét tâm hồn, loại bỏ bệnh tật tinh thần, đồng thời phát huy được hết tiềm năng của tâm trí mình.
Nghệ thuật yêu (tên tiếng anh là The Art of Loving) được nhà phân tâm học Erich Fromm xuất bản năm 1957. Đây có lẽ là tác phẩm nổi tiếng hơn cả của Erich Fromm, được tái bản nhiều nhất bằng nhiều thứ tiếng.
Ở thời điểm đó khi Erich Fromm cho ra mắt cuốn sách này, ông đã trở thành học giả đầu tiên nghiên cứu về “tình yêu” và “năng lực yêu” như một đề tài nghiêm túc để nêu ra trước công luận. Đáng nói hơn là, hiếm khi những cuốn sách đó sống lâu hơn tác giả của chúng. Nhưng ở trường hợp này, hơn 25 năm sau khi ông mất, cuốn sách đã được dịch ra 34 thứ tiếng với hàng triệu bản in.
Ngày nay, với rất nhiều độc giả, đặc biệt là những độc giả trẻ, quyển sách này đã trở thành một phát hiện. Những độc giả đã có nó trên giá sách thì thường xuyên đọc lại. Tác phảm hấp dẫn không hẳn là vì nhan đề mà còn vì cuốn sách cung cấp những hiểu biết sâu về bản tính người liên quan đến vấn đề có lẽ là “vấn đề của mọi vấn đề”: Lòng yêu thương.
Fromm viết về một chủ đề mà ta đã quá quen thuộc: Tình yêu. Tuy nhiên, như chính Fromm bộc bạch: « Bất cứ ai trông đợi sự chỉ dẫn dễ dãi về nghệ thuật yêu sẽ thất vọng khi đọc cuốn sách này. Cuốn sách, ngược lại, muốn cho thấy tình yêu không phải một thứ tình cảm mà bất cứ ai cũng có thể dễ dàng đắm chìm vào, dù người đó đạt tới mức độ trưởng thành nào.»
Fromm nhận định «Yêu là một nghệ thuật, giống như sống cũng là một nghệ thuật vậy». «Quá trình học hỏi một nghệ thuật có thể được chia thành hai phần: một là tinh thông lý thuyết; hai là tinh thông thực hành […] Nhưng, ngoài học kiến thức lý thuyết và kiến thức thực hành, còn có một yếu tố cần thiết thứ ba để trở thành người tinh thông – đó là phải coi việc tinh thông nghệ thuật là mối quan tâm tối hậu…»
Từ đây, cuốn sách của Fromm đã đi vào phân tích cặn kẽ lý thuyết về tình yêu, lý giải tình yêu như lời giải đáp cho sự tồn tại người và nhu cầu sâu xa nhất của con người là vượt qua sự chia cách, để rời khỏi ngục tù cô độc của mình, để có được “sự hòa giải bằng tình yêu” ; Fromm phân tích những hình thái khác nhau của tình yêu dựa trên đối tượng của tình yêu, như tình yêu đồng loại, tình mẫu tử, lòng tự yêu bản thân, tình yêu Thượng đế và tình yêu nhục cảm ; cũng như phân tích «hình thái tình yêu giả tạo, mà trên thực tế, phần lớn chúng là những hình thức tan rã của tình yêu» trong xã hội chúng ta hiện nay.
Cuối cùng, để thực sự làm chủ được nghệ thuật yêu, Fromm đi đến những bàn luận về các tiền đề của nghệ thuật yêu, các phương pháp tiếp cận, và thực hành những điều ấy: kỷ luật, sự tập trung, kiên nhẫn và hết lòng quan tâm đến nghệ thuật ấy.
Fromm nói về tình yêu, nhưng không phải “thuyết giáo”. Fromm nói về tình yêu dựa trên chính bản chất của con người, với niềm tin rằng, dù đầy những khó khăn, « tình yêu không chỉ là một hiện tượng cá nhân hiếm có mà sẽ trở thành hiện tượng xã hội ».
ĐÁNH GIÁ/NHẬN XÉT CHUYÊN GIA
Erich Fromm vừa là một nhà tâm lý học đầy thấu suốt, vừa là một cây viết đầy tài năng. Cuốn sách của ông là một trong những tác phẩm chân thực và thẳng thắn, có tính thực tiễn và đạt đến sự chính xác. - Chicago Tribune
“Đó là một cuốn sách rất ngắn – chưa đến 100 trang – mỗi dòng đều trĩu nặng sự nhận biết, tình yêu thương và sự thật”. - Fortune
Nhờ cuốn sách mỏng Nghệ thuật yêu này, chúng ta đã có sự thay đổi sâu sắc về nhận thức, sự hy vọng lạc quan và niềm an ủi. - Peter D. Kramer
TÁC GIẢ:
Erich Fromm (1900-1980)
Nhà tâm phân học người Đức, người nằm giữa giai đoạn chuyển tiếp từ Tâm phân học của Sigmund Freud đến Tân Freud, người đã kết hợp lý thuyết của Freud và học thuyết của Karl Marx để tạo một hướng đi riêng có nhiều đóng góp và ảnh hưởng trong lĩnh vực Tâm phân học xã hội.
Tác phẩm nổi bật :
Escape freedom [Trốn khỏi tự do], 1941
The sane society [Xã hội tỉnh táo], 1955
The art of loving [Nghệ thuật yêu], 1956
Không chỉ một bệnh nhân ở nhà thương điên tin chắc rằng mọi người đều điên, chỉ riêng anh ta tỉnh. Còn chúng ta thì sao?
Ai cũng cho rằng chúng ta, những người sống ở phương Tây thế kỷ 20, đều vô cùng tỉnh táo. Ngay cả khi thực tế là rất nhiều người trong chúng ta mắc các chứng tâm thần ít nhiều nghiêm trọng cũng chẳng khiến ai nghi ngờ về tiêu chuẩn sức khỏe tâm thần chung. Liệu chúng ta có thể chắc rằng mình đang không tự lừa mình dối người?
15 năm sau cuộc điều tra về ý nghĩa của tự do với con người hiện đại trong tác phẩm “Trốn thoát tự do”, nhà phân tâm học nổi tiếng người Đức Erich Fromm sẽ tiếp tục đưa ra khám phá quan trọng về những căn bệnh sâu xa của xã hội hiện đại trong cuốn sách “Xã hội tỉnh táo” của mình.
Ở tác phẩm này, Erich Fromm tiến xa hơn và đặt ra câu hỏi: “Liệu một xã hội có thể bị bệnh?” Ông cho thấy rằng điều đó có thể xảy ra, lập luận rằng văn hóa phương Tây đang đắm chìm trong “bệnh lý của sự bình thường”, ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của các cá nhân.
Trong “Xã hội tỉnh táo”, Fromm phê bình và phân tích tâm lý xã hội tư bản công nghiệp hiện đại và những công dân nhất định bị tha hóa của nó. Nhưng hơn thế, ông cũng đưa ra những gợi ý để vận hành một xã hội lành mạnh, tỉnh táo — ý tưởng rằng “tiến bộ chỉ có thể xảy ra khi đồng thời thay đổi các lĩnh vực kinh tế, xã hội-chính trị và văn hóa; nếu chỉ giới hạn tiến bộ trong một lĩnh vực tức là hủy hoại tiến bộ ở mọi lĩnh vực”.
Bởi vậy, sâu xa hơn một “bản cáo trạng”, đây là cuốn sách “dũng cảm với mục tiêu đạo đức cao cả”, hướng về tình yêu và tự do của con người chúng ta.
ĐÁNH GIÁ/NHẬN XÉT CỦA CHUYÊN GIA
1, “Một đóng góp xuất sắc cho bộ sưu tập ngày càng nhiều những phản ánh tâm lý xã hội về thời hiện đại.” - The Washington Post
2, “Người ta bị mê hoặc từ trang này sang trang khác bởi tính sắc bén của phân tích, tính cụ thể của cách trình bày và vẻ đẹp của phong cách.” - Paul Tillich
3, “Một cuốn sách dũng cảm với mục tiêu đạo đức cao cả... một bản cáo trạng không khoan nhượng đối với xã hội đương thời.” - Guide to Psychiatric and Psychological Literature
4, “Tư tưởng của Fromm xứng đáng nhận được sự chú ý quan trọng của tất cả những người quan tâm đến thân phận con người và tương lai của nhân loại.” - The Washington Post
TRÍCH ĐOẠN HAY
Ai cũng cho rằng chúng ta, những người sống ở phương Tây thế kỷ 20, đều vô cùng tỉnh táo. Ngay cả khi thực tế là rất nhiều người trong chúng ta mắc các chứng tâm thần ít nhiều nghiêm trọng cũng chẳng khiến ai nghi ngờ về tiêu chuẩn sức khỏe tâm thần chung. Chúng ta chắc chắn rằng đưa ra các phương pháp vệ sinh tinh thần tốt hơn sẽ càng thêm cải thiện tình trạng sức khỏe tâm thần, và chúng ta xem các rối loạn tâm thần hoàn toàn là các sự cố cá nhân, có thể với chút ngạc nhiên khi những sự cố này lại xảy ra quá nhiều ở một nền văn hóa được cho là rất tỉnh táo. (p. 15)
Chúng ta đã giảm giờ làm trung bình xuống còn một nửa so với một trăm năm trước. Thời gian rảnh rỗi của chúng ta ngày nay nhiều hơn mức tổ tiên ông cha ta dám mơ ước. Nhưng điều gì đã xảy ra? Chúng ta không biết cách sử dụng số thời gian rảnh mới giành được; chúng ta cố gắng giết số thời gian đó rồi mừng rỡ khi một ngày nữa đã trôi qua. (tr. 18)
Thế nhưng rất nhiều bác sĩ tâm thần và nhà tâm lý học từ chối nghĩ về quan điểm: xã hội nói chung có thể đang thiếu sự tỉnh táo. Họ cho rằng vấn đề sức khỏe tâm thần trong xã hội chỉ là một số cá nhân “không thích ứng được” chứ không phải do chính nền văn hóa không thể tự điều chỉnh. Cuốn sách này bàn tới vấn đề thứ hai; không phải bệnh lý cá nhân, mà là bệnh lý của tính bình thường, đặc biệt với bệnh lý của xã hội phương Tây đương đại. (tr. 19)
… [T]uyên bố rằng con người có thể sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào chỉ đúng một nửa; phải bổ sung thêm một tuyên bố khác: nếu sống trong những hoàn cảnh trái với bản chất của mình cũng như những yêu cầu cơ bản cho sự phát triển và sự lành mạnh của con người, anh ta không thể không phản kháng; chắc hẳn anh ta sẽ sa đọa và lụi tàn, hoặc sẽ tạo ra những điều kiện phù hợp hơn với các nhu cầu của mình. (tr. 37)
Sự tồn tại của động vật là một sự hài hòa giữa con vật và tự nhiên; tất nhiên, không theo nghĩa các điều kiện tự nhiên thường không đe dọa động vật và không ép nó phải chiến đấu quyết liệt để tồn tại, mà theo nghĩa động vật được tự nhiên trang bị để đương đầu với chính những hoàn cảnh nó gặp phải, giống như hạt giống của cây được tự nhiên phú cho khả năng tận dụng các điều kiện đất đai, khí hậu, v.v., nhờ thế thích nghi trong quá trình tiến hóa. (tr.41)
Thực tế, người mất trí là người không thể thiết lập bất kỳ mối liên kết nào, và bị cầm tù, ngay cả khi anh ta không ở đằng sau chấn song sắt nào. Con người buộc phải đoàn kết, liên kết với người khác, đây là một nhu cầu cấp thiết, và sự tỉnh táo của con người phụ thuộc vào việc nhu cầu này được đáp ứng. Nhu cầu này đứng đằng sau tất cả hiện tượng cấu thành mọi mối quan hệ mật thiết của con người, mọi đam mê được gọi là tình yêu theo nghĩa rộng nhất của từ này.
Chỉ có duy nhất một đam mê thỏa mãn nhu cầu hợp nhất bản thân với thế giới, cùng lúc có được với cảm giác toàn vẹn và tính cá nhân, đó chính là tình yêu. Tình yêu là kết hợp với một người, hay một thứ, bên ngoài mình, với điều kiện giữ được sự riêng biệt và toàn vẹn của chính bản thân người đó.
Người lớn có các phương tiện để tự lực cánh sinh, để tự chăm sóc, chịu trách nhiệm với bản thân và với cả người khác, trong khi đứa trẻ thì chưa có khả năng làm tất thảy điều này. Nhưng xét tới chuyện cuộc sống ngày càng phức tạp, kiến thức của chúng ta thì chắp vá, quãng đời trưởng thành chứa nhiều điều ngẫu nhiên, những sai lầm không thể tránh khỏi, tình cảnh của người lớn không có gì khác biệt với đứa trẻ như thường được giả định. Người lớn nào cũng cần giúp đỡ, hơi ấm, sự bảo vệ theo nhiều cách khác nhau, thế nhưng ở nhiều chỗ lại tương tự với nhu cầu của trẻ nhỏ. Liệu có đáng ngạc nhiên khi phát hiện ra người lớn bình thường khao khát sâu kín có được sự an toàn và có nguồn cội mà mối quan hệ với người mẹ từng cho anh ta? Phải chăng không thể mong đợi anh ta từ bỏ khao khát mãnh liệt ấy, trừ phi anh ta tìm cách khác để bám rễ?
Cá nhân có khỏe mạnh hay không, trước hết không phải là vấn đề của cá nhân, mà phụ thuộc vào cấu trúc của xã hội của anh ta. Một xã hội tỉnh táo sẽ thúc đẩy các năng lực yêu thương đồng loại, làm việc sáng tạo của con người, phát triển lý trí và tính khách quan, có ý thức về bản thân dựa trên thể nghiệm chính các năng lực sản sinh của mình. Một xã hội không lành mạnh sẽ tạo ra sự thù địch lẫn nhau, sự hồ nghi, biến con người thành một công cụ cho người khác sử dụng hay bóc lột, lấy đi ý thức về cái tôi của anh ta, trừ phi anh ta phục tùng người khác hoặc trở thành một người máy. Xã hội có thể có cả hai chức năng; nó có thể thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của con người, và cũng có thể cản trở nó; thực tế hầu hết xã hội thực hiện cả hai, và câu hỏi đặt ra chỉ là ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của chúng được thực hiện tới mức nào và theo các hướng nào. (tr.113)
Giả sử con người với đúng nghĩa con người, và mối quan hệ của con người với thế giới là một mối quan hệ con người, thì bạn chỉ có thể trao tình yêu lấy tình yêu, đổi tín nhiệm lấy tín nhiệm, v.v.. Nếu muốn thưởng thức nghệ thuật, bạn phải trau dồi tính nghệ thuật của mình; nếu muốn bản thân tạo được ảnh hưởng với người khác, bạn phải là một người thực sự có ảnh hưởng kích thích và khích lệ người khác. Mỗi một mối quan hệ của bạn với con người và với tự nhiên phải là một biểu hiện cụ thể của cuộc sống độc đáo thực tế của bạn, tương xứng với đối tượng của ý chí bạn. (p. 197)
Chúng ta có thể hạnh phúc hay bất hạnh, đạt được một số mục tiêu, và không đạt được những mục tiêu khác; tuy nhiên không có sự cân bằng hợp lý nào có thể cho thấy liệu cuộc sống này có đáng sống hay không. Có lẽ từ quan điểm của sự cân bằng, cuộc sống không hề đáng sống. Cuộc sống nhất định kết thúc bằng cái chết; rất nhiều hy vọng của chúng ta không thành hiện thực; nó bao hàm đau khổ và nỗ lực; từ quan điểm của sự cân bằng, dường như cuộc sống sẽ ý nghĩa hơn khi không được sinh ra, hoặc chết đi khi còn sơ sinh. Mặt khác, ai có thể nói liệu một khoảnh khắc hạnh phúc của tình yêu, hoặc niềm vui khi được hít thở hay đi dạo trong một buổi sáng chan hòa ánh nắng và ngửi mùi không khí trong lành, không hề đáng với tất cả những đau khổ và nỗ lực mà cuộc sống mang lại? Cuộc sống là một món quà và thách thức độc đáo, không phải để đong đếm theo bất cứ thứ gì, và không thể trả lời hợp lý cho câu hỏi liệu cuộc sống có “đáng sống”, bởi vì câu hỏi ấy chẳng mang ý nghĩa gì. (tr.223)
Uy quyền trong giữa thế kỷ 20 đã thay đổi đặc tính của mình; nó không phải uy quyền công khai, mà là uy quyền vô danh, vô hình, xa lạ. Không ai đưa ra yêu cầu, không phải một con người, hay một ý tưởng, hay một quy tắc đạo đức. Nhưng chúng ta đều tuân phục nhiều như hoặc nhiều hơn những người ở trong xã hội chuyên quyền thái quá sẽ tuân phục. Thật vậy, không ai là uy quyền ngoại trừ “Nó”. Nó là gì? Lợi nhuận, các nhu cầu kinh tế, thị trường, lẽ thường, công luận, điều “một thứ” làm, nghĩ, cảm nhận. Các luật lệ của uy quyền ẩn danh cũng vô hình giống như các quy luật thị trường – và cũng như không thể bác bỏ. Ai có thể tấn công một thứ vô hình? Ai có thể nổi dậy chống lại Không Ai Cả? (tr.227)\
Cuộc sống, xét về các khía cạnh tinh thần và tâm linh, nhất định sẽ bất an và bấp bênh. Chỉ có một điều chắc chắn là chúng ta được sinh ra và chúng ta sẽ chết đi; chỉ có sự an toàn tuyệt đối khi hoàn toàn phục tùng các quyền lực được xem là mạnh mẽ và bền bỉ, đồng thời giải phóng con người khỏi sự bắt buộc phải đưa ra quyết định, mạo hiểm và có trách nhiệm. Con người tự do nhất định sẽ bất an; con người biết suy nghĩ nhất định sẽ bất an. (tr. 290)
CÂU QUOTE HAY
Nhiệm vụ của “ngành khoa học con người” là cuối cùng rút ra một mô tả chính xác về những gì xứng đáng được gọi là bản chất con người. (tr. 28)
Tương tự như con người biến đổi thế giới xung quanh, anh ta cũng biến đổi bản thân trong quá trình lịch sử. Có thể nói, con người tự sáng tạo ra chính mình. (tr. 29)
Chuyện hàng triệu người có cùng những thói hư tật xấu không khiến những thói tật đó thành đúng đắn, họ có cùng những sai lầm không khiến những sai lầm đó thành lẽ phải, và hàng triệu người có cùng những dạng bệnh lý tâm thần không khiến những người này tỉnh táo. (tr. 31)
Sự tự nhận thức, lý trí và trí tưởng tượng phá vỡ “sự hài hòa” vốn biểu thị cho sự tồn tại của động vật. Sự xuất hiện của những thứ này đã khiến con người trở nên dị thường, trở thành điều kỳ dị trong vũ trụ.
Con người là động vật duy nhất có thể cảm thấy buồn chán, có thể cảm nhận mình bị đuổi khỏi Thiên Đàng. Con người là động vật duy nhất nhận thấy sự tồn tại của mình là một vấn đề phải giải quyết và không thể trốn thoát. Anh ta không thể quay lại trạng thái hòa hợp với tự nhiên ở giai đoạn tiền nhân loại; anh ta phải tiếp tục phát triển lý trí cho tới khi trở thành người làm chủ tự nhiên và chính bản thân.
Như vậy, sự ra đời, theo nghĩa thông thường của từ này, chỉ là sự khởi đầu của việc sinh ra theo nghĩa rộng hơn. Cả cuộc đời của một cá nhân chẳng là gì ngoài quá trình sinh ra chính mình; thực vậy, chúng ta sẽ được sinh ra trọn vẹn khi chúng ta chết đi – mặc dù số phận đáng buồn của phần lớn các cá nhân là chết trước khi được sinh ra.
Con người không thể sống trì trệ bởi các mâu thuẫn nội tại thúc đẩy anh ta tìm kiếm một trạng thái cân bằng, một trạng thái hài hòa mới thay cho sự hài hòa đã mất của con vật với tự nhiên.
Trong hành động yêu, tôi là một với Tất cả, nhưng tôi vẫn là chính tôi, một con người phàm tục, hữu hạn, riêng biệt, độc nhất.
Con người có thể được định nghĩa là loài động vật có thể xưng “Tôi”, có thể nhận thức được bản thân là một thực thể tách biệt.
Sự tiến hóa của loài người là kết quả của sự phát triển văn hóa, chứ không do sự thay đổi hữu cơ.
Các mối quan hệ giữa con người trong thời chúng ta chẳng có nhiều tình yêu hay hận thù. Đúng hơn là có sự thân thiện giả tạo, và một sự công bằng cực kỳ giả tạo, nhưng đằng sau bề ngoài đó là sự xa cách và hờ hững. (tr. 207)
Mọi người có thực sự hạnh phúc, có thỏa mãn, một cách vô thức, như họ tin rằng mình đang như thế? (tr. 240)
Máy móc thay vì thế cho năng lượng con người, thì con người trở thành thứ thay thế cho máy móc. Có thể định nghĩa lao động của con người là thực hiện những hành vi mà máy móc chưa thể thực hiện được. (tr. 267)
THÔNG TIN TÁC GIẢ
Nhà phân tâm học người Đức, người nằm giữa giai đoạn chuyển tiếp từ Phân tâm học của Sigmund Freud đến Tân Freud, người đã kết hợp lý thuyết của Freud và học thuyết của Karl Marx để tạo một hướng đi riêng có nhiều đóng góp và ảnh hưởng trong lĩnh vực Phân tâm học xã hội.
Tác phẩm của Erich Fromm do Omega+ xuất bản:
Escape from Freedom [Trốn thoát tự do], 1941
The Sane Society [Xã hội tỉnh táo], 1955
The Art of Loving [Nghệ thuật yêu], 1956
Tự do có ý nghĩa như thế nào với con người hiện đại?
Tự do của con người đã, đang và sẽ luôn là một vấn đề nóng hổi, thu hút sự quan tâm và được các nhà tư tưởng lý giải ở nhiều góc độ khác nhau. Tự do là đích ngắm mà mọi người đều hướng đến, và nhiều khi người ta phải đấu tranh để giành lấy nó. Vậy mà ngay từ tựa đề cuốn sách, Erich Fromm đã khiến người đọc tò mò khi đặt ra một nghịch lý: nếu đã muốn sở hữu tự do, thì tại sao lại phải trốn thoát nó?
Bằng cách tập trung vào khía cạnh có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc khủng hoảng văn hóa và xã hội trong thời đại của chúng ta, cuốn sách “Trốn thoát tự do” của Erich Fromm sẽ giải đáp những thắc mắc xoay quanh nghịch lý này, một cách thỏa đáng.
“Trốn thoát tự do” là một phần trong công trình nghiên cứu khái quát về cấu trúc tính cách của con người hiện đại và những vấn đề về tác động qua lại giữa các yếu tố tâm lý và xã hội mà tác giả đã dày công tìm hiểu suốt nhiều năm. Cuốn sách hàm chứa một nội dung vô cùng sâu sắc và có ý nghĩa nhân văn lớn lao đối với con người và sự phát triển của xã hội hiện đại; qua đó, thể hiện sự tiếp nối dòng tư tưởng khám phá về con người trong tiến trình lịch sử tư tưởng nhân loại nói chung, và của tâm lí học xã hội - chính trị nói riêng.
Sách gồm 7 chương và Phụ lục. Chương 1: Tự do - một vấn đề tâm lý; Chương 2: Sự trỗi dậy của con người cá nhân và sự mơ hồ của tự do; Chương 3: Tự do trong thời kì Cải cách; Chương 4: Hai khía cạnh của tự do đối với con người hiện đại; Chương 5: Những cơ chế trốn thoát; Chương 6: Hệ tâm lý của chủ nghĩa Quốc xã; Chương 7: Tự do và dân chủ; Phụ lục: Tính cách và tiến trình xã hội. Từ những nội dung được luận giải xuyên suốt cuốn sách, chúng ta thấy rằng, Erich Fromm đã thể hiện một cách tiếp cận mới mẻ và đặc sắc về ý nghĩa của tự do đối với con người hiện đại.
“Luận điểm của cuốn sách này là con người hiện đại, mặc dù thoát khỏi những ràng buộc của xã hội tiền chủ nghĩa cá nhân, vốn vừa đem đến sự an toàn vừa giới hạn anh ta, lại không đạt được tự do theo nghĩa tích cực trong nhận thức về bản ngã cá nhân; tức là, việc thể hiện những tiềm năng trí tuệ, cảm xúc và giác quan. Tự do, mặc dù đem đến sự độc lập và lý tính, đã khiến con người trở nên bị cô độc và, do đó, hoang mang và bất lực. Tình trạng cô lập này là không thể chịu đựng nổi và con người đối diện với những lựa chọn thay thế: hoặc chạy trốn những gánh nặng tự do của bản thân bằng sự lệ thuộc và phục tùng mới, hoặc tiến tới nhận thức đầy đủ về tự do tích cực, điều dựa trên tính độc đáo và cá nhân của con người.” (Erich Fromm)
Tác phẩm là một tài liệu hữu ích dành cho những ai quan tâm đến tư tưởng phương Tây thời kì hiện đại nói riêng và lịch sử tư tưởng nhân loại nói chung.
ĐÁNH GIÁ/NHẬN XÉT CỦA CHUYÊN GIA
“Một phân tích xuất sắc về chứng loạn thần kinh trong nền văn hóa của chúng ta.” ― The Nation
“Một tác phẩm quan trọng và đầy thử thách.” ― The New York Herald Tribune
“Tư tưởng của Fromm xứng đáng nhận được sự chú ý quan trọng của tất cả những người quan tâm đến thân phận con người và tương lai của nhân loại.” - The Washington Post
TRÍCH ĐOẠN HAY
Có lẽ bên cạnh khao khát tự do bẩm sinh, người ta còn có một mong muốn bản năng đối với sự lệ thuộc? Nếu không, làm sao chúng ta có thể lý giải được sức hút của việc phục tùng mà một thủ lĩnh có được đối với quá nhiều người ở thời điểm hiện tại? Sự khuất phục phải chăng luôn là trước một queen lực công khai, hay còn trước những queen lực bị chủ quan hóa, như nghĩa vụ hoặc lương tâm, trước những thúc ép bên throng hoặc trước những queen lực ẩn danh như dư luận xã hội? Phải chăng có một sự thỏa mãn ngầm khi quy phục kẻ khác, và bản chất của nó là gì? (tr.23+24).
Những khuynh hướng cao thượng nhất cũng như xấu xí nhất của con người không phải là một phần throng bản chất cố định và sẵn có về mặt sinh học, mà là kết quả từ quá trình xã hội [đã] nhào nặn nên con người đó. Nói cách khác, xã hội không chỉ có chức năng trấn áp – mặc dù nó cũng có chức năng đó – mà còn có chức năng sáng tạo. Bản chất của con người, những đam mê và sợ hãi của anh ta đều là sản phẩm văn hóa; trên thực tế, bản thân con người là tạo tác và thành tựu quan trọng nhất throng nỗ lực không ngừng nghỉ của nhân loại, là đỉnh cao của cái mà chúng ta gọi là lịch sử. (tr. 32).
Chừng nào con người còn là một phần không thể thiếu của thế giới, chưa nhận thức được khả năng và trách nhiệm của hành động cá nhân, chừng đó họ không cần phải e sợ điều đó. Khi một người trở thành một cá nhân, anh ta đứng một mình và đối mặt với thế giới mà ở mọi khía cạnh đều nguy hiểm và vượt trội về sức mạnh. (tr. 54)
Bất kỳ một loại tư tưởng nào, dù đúng hay sai, nếu nó vượt lên trên một sự phù hợp hời hợt bề ngoài với những quan điểm thông thường, đều được thúc đẩy nhờ nhu cầu và lợi ích chủ quan của người suy tưởng. Thường thì một số lợi ích tăng lên nhờ việc tìm ra sự thật, một số khác thì bằng cách hủy hoại nó. Tuy nhiên trong cả hai trường hợp, động cơ tâm lý đều là những yếu tố khích lệ quan trọng để đi tới
tiến trình xã hội, bằng cách xác định phương thức sống của cá nhân, tức là, mối quan hệ của anh ta với người khác và với lao động, tạo nên cấu trúc tính cách của anh ta; những ý thức hệ mới – tôn giáo, triết học, hoặc chính trị – bắt nguồn và thu hút cấu trúc tính cách đã thay đổi này, và do đó, tăng cường, thỏa mãn và khiến nó thêm vững vàng; đặc điểm tính cách mới được hình thành, tới lượt nó, đã trở thành nhân tố quan trọng trong sự phát triển xa hơn về mặt kinh tế và tác động tới tiến trình xã hội; mặc dù, ban đầu, những đặc điểm này đóng vai trò là một phản ứng trước sự đe dọa của những lực lượng kinh tế mới, chúng đã dần trở thành những động lực sản xuất mạnh mẽ hơn và đẩy mạnh sự phát triển của nền kinh tế mới. (tr.152)
Đỉnh cao của sự phát triển tự do throng lĩnh vực chính trị và nhà nước dân chủ hiện đại dựa trên nguyên tắc tất cả mọi người đều bình đẳng và họ có queen ngang nhau khi tham gia vào chính queen thông qua những đại diện do chính họ lựa chọn. mỗi người đều được phép hành động vì lợi ích của mình, đồng thời, hướng tới sự thịnh vượng chung của dân tộc. (tr.158)
… có thể thấy bản thân ta, về nguyên tắc, cũng là đối tượng tình yêu của ta giống như người khác. Sự khẳng định của đời sống riêng, hạnh phúc, sự phát triển, tự do cá nhân, bắt nguồn từ sự sẵn sàng và khả năng cơ bản cho một lời quả quyết như vậy. Nếu cá nhân có sự sẵn sàng này, anh ta cũng có thiện chí đó với chính mình; nếu chỉ có thể “yêu” người khác, anh ta không thể yêu gì cả. (tr.169)
CÂU QUOTE HAY
… động lực tìm kiếm tự do là cố hữu trong bản chất con người, dù có thể bị hủy hoại và đàn áp, nhưng vẫn luôn có xu hướng tự khẳng định hết lần này đến lần khác. (tr.15)
Trạng thái cô độc về mặt thể chất trở nên không chịu đựng nổi chỉ khi nó bao hàm cả trạng thái cô độc về mặt tinh thần. (tr. 41)
Anh ta tự do – tức là anh ta cô đơn, tách biệt, phải đối diện với hiểm nguy từ mọi phía. (tr.100)
Cuộc tìm kiếm sự xác tín một cách bắt buộc … không phải là biểu hiện của đức tin chân chính mà bắt nguồn từ nhu cầu đánh bại nỗi hoài nghi không thể chịu đựng nổi. (tr. 120)
Mục đích của chúng ta là chứng minh rằng cấu trúc của xã hội hiện đại, cùng một lúc, ảnh hưởng tới con người theo hai cách: anh ta trở nên độc lập, tự tin, và hay chỉ trích hơn, đồng thời cũng trở nên tách biệt, cô độc, và sợ hãi hơn. Nhận thức đầy đủ về vấn đề tự do phụ thuộc vào khả năng nhìn thấy cả hai mặt của tiến trình và không để “mất dấu” mặt này trong khi đang theo dõi mặt kia. (tr.154)
Chúng ta bị mê hoặc trước sự lớn mạnh của tự do với những quyền lực bên ngoài bản thân và không nhìn thấy những ràng buộc, cưỡng ép, và sợ hãi bên throng, những điều có xu hướng làm suy yếu thành tựu mà tự do đã giành được trước những kẻ thù truyền thống. (tr.156).
VỀ TÁC GIẢ
ERICH FROMM (1900 -1980) là nhà phân tâm học người Đức, người nằm giữa giai đoạn chuyển tiếp từ Phân tâm học của Sigmund Freud đến tân Freud, người đã kết hợp lý thuyết của Freud và học thuyết của Karl Marx để tạo một hướng đi riêng có nhiều đóng góp và ảnh hưởng throng lĩnh vực Phân tâm học xã hội.
Sách kỹ năng sống, Sách nuôi dạy con, Sách tiểu sử hồi ký, Sách nữ công gia chánh, Sách học tiếng hàn, Sách thiếu nhi