1. Sách
  2. ///
Logo Banner Home

Tác Giả nguyễn đức hiệp

Tổng hợp sách của tác giả nguyễn đức hiệp tại KhoSach.com.vn
name

Lịch Sử Sân Khấu Kịch Và Điện Ảnh Việt Nam: Khám Phá Nét Văn Hóa Nghệ Thuật

Cuốn sách "Lịch sử sân khấu kịch và điện ảnh Việt Nam" là một tác phẩm đầy đủ và chi tiết, mang đến cái nhìn tổng quan về sự hình thành và phát triển của hai loại hình nghệ thuật này ở Nam Bộ từ đầu thế kỷ 20 đến thập niên 2010.

Khám phá Sự Ra Đời và Phát Triển Của Nghệ Thuật Kịch Và Điện Ảnh

Tác phẩm đi sâu vào việc phân tích các giai đoạn lịch sử quan trọng, từ những mầm mống ban đầu cho đến sự trưởng thành và phát triển rực rỡ của sân khấu kịch và điện ảnh Việt Nam. Nét độc đáo của cuốn sách chính là việc tập trung vào Nam Bộ, một vùng đất có vai trò quan trọng trong sự phát triển của hai loại hình nghệ thuật này.

Tầm Nhìn Rộng Lớn Vượt Qua Ranh Giới Không Gian

Mặc dù tập trung vào Nam Bộ, tác phẩm cũng đề cập đến những tương tác và ảnh hưởng của sân khấu kịch và điện ảnh từ các miền khác trên toàn Việt Nam trước khi đất nước thống nhất. Nhờ đó, bạn đọc có thể hiểu rõ hơn về bức tranh toàn cảnh của sự phát triển nghệ thuật kịch và điện ảnh Việt Nam.

Sự Phân Chia Rõ Ràng Và Tập Trung

Cuốn sách được chia thành hai phần chính:

Phần 1: Lịch sử sân khấu kịch Việt Nam: Khám phá hành trình phát triển của sân khấu kịch từ những bước đầu tiên cho đến những thành tựu đáng tự hào.

Phần 2: Lịch sử điện ảnh Việt Nam: Du hành qua lịch sử điện ảnh Việt Nam, từ những bộ phim đầu tiên cho đến sự bùng nổ của điện ảnh thương mại.

Nâng Cao Hiểu Biết Về Nét Văn Hóa Việt Nam

"Lịch sử sân khấu kịch và điện ảnh Việt Nam" là một công cụ hữu ích cho những ai muốn tìm hiểu về nét văn hóa đặc sắc của Việt Nam. Tác phẩm cung cấp những thông tin quý báu về quá trình hình thành và phát triển của hai loại hình nghệ thuật này, đồng thời phản ánh tinh thần, tâm hồn và ước mơ của người Việt Nam qua các thời kỳ.

Đánh Giá Chung

Cuốn sách là một tài liệu tham khảo vô cùng quý giá cho các nhà nghiên cứu, sinh viên và những người yêu thích nghệ thuật. Ngôn ngữ dễ hiểu, cách trình bày khoa học, cùng với những hình ảnh minh họa sinh động đã giúp tác phẩm trở nên hấp dẫn và dễ tiếp cận.

name

Lịch Sử Doanh Nghiệp Và Công Nghiệp Ở Sài Gòn Và Nam Kỳ Từ Giữa Thế Kỷ XIX Đến Năm 1945

Giới thiệu

Cuốn sách "Lịch Sử Doanh Nghiệp Và Công Nghiệp Ở Sài Gòn Và Nam Kỳ Từ Giữa Thế Kỷ XIX Đến Năm 1945" là một công trình nghiên cứu sâu rộng, mang đến cái nhìn toàn diện về quá trình hình thành và phát triển của nền kinh tế, kỹ nghệ và thương mại ở Sài Gòn - Chợ Lớn dưới thời Pháp thuộc. Từ những bước chân đầu tiên của các công ty thương mại phương Tây đến sự bùng nổ của các ngành công nghiệp địa phương, cuốn sách tái hiện một giai đoạn lịch sử đầy biến động và phức tạp, đồng thời hé lộ những dấu ấn quan trọng định hình nền kinh tế Việt Nam hiện đại.

Nội dung chính

Trong thời kỳ Pháp thuộc, Sài Gòn - Chợ Lớn nhanh chóng trở thành trung tâm kinh tế, kỹ nghệ và thương mại của Nam Kỳ. Sự hiện diện của các công ty thương mại phương Tây từ Hồng Kông, Manila, Singapore, Yokohama đã tạo nên một động lực phát triển mạnh mẽ cho khu vực. Lợi thế về thị trường mới là Nam Kỳ cùng với nhu cầu thiết lập cơ sở hạ tầng cho chính quyền Pháp và đoàn lính viễn chinh đã thúc đẩy sự bùng nổ dịch vụ và các ngành nghề liên quan.

Trong giai đoạn đầu, từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, nền kinh tế Nam Kỳ chủ yếu dựa vào các ngành nông nghiệp như lúa gạo, cao su, các nông sản khác. Cùng với sự phát triển của ngành nông nghiệp, các dịch vụ xây dựng và giao thông đường thủy, đường sắt cũng được đẩy mạnh, kết nối thị trường Nam Kỳ, Campuchia với các nước khác.

Review

Cuốn sách là một nguồn tư liệu quý giá cho những ai quan tâm đến lịch sử kinh tế Việt Nam, đặc biệt là sự hình thành và phát triển của Sài Gòn - Chợ Lớn trong giai đoạn chuyển giao từ thế kỷ XIX sang thế kỷ XX. Tác giả đã khai thác những nguồn tài liệu phong phú, kết hợp với phân tích khoa học, mang đến cho người đọc một bức tranh toàn cảnh về quá trình phát triển kinh tế, kỹ nghệ và thương mại của khu vực.

Bên cạnh những ưu điểm:

Nội dung chi tiết, dễ hiểu: Cuốn sách được viết với ngôn ngữ khoa học, dễ hiểu, phù hợp với cả những người không chuyên về lĩnh vực kinh tế.

Nguồn tư liệu phong phú: Tác giả đã khai thác nhiều nguồn tài liệu, từ sách báo, tài liệu lưu trữ đến phỏng vấn các nhân chứng lịch sử.

Phân tích sâu sắc: Cuốn sách không chỉ cung cấp những thông tin lịch sử mà còn phân tích những nguyên nhân, kết quả và tác động của các sự kiện, giúp người đọc hiểu rõ hơn về quá trình phát triển của Sài Gòn - Chợ Lớn.

Tuy nhiên, cuốn sách cũng có một số hạn chế:

Thiếu sự kết nối với thực trạng hiện tại: Cuốn sách chủ yếu tập trung vào giai đoạn lịch sử, ít đề cập đến những ảnh hưởng của quá khứ đối với sự phát triển kinh tế của Sài Gòn - Chợ Lớn hiện nay.

Kết luận:

"Lịch Sử Doanh Nghiệp Và Công Nghiệp Ở Sài Gòn Và Nam Kỳ Từ Giữa Thế Kỷ XIX Đến Năm 1945" là một cuốn sách đáng đọc cho những ai muốn tìm hiểu về lịch sử kinh tế Việt Nam, đặc biệt là sự hình thành và phát triển của Sài Gòn - Chợ Lớn. Cuốn sách cung cấp nhiều thông tin quý giá, giúp người đọc hiểu rõ hơn về một giai đoạn lịch sử đầy biến động và phức tạp, đồng thời khơi gợi những suy ngẫm về những bài học kinh nghiệm cho sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam hiện nay.

name

Sài Gòn và Nam kỳ trong thời kỳ Canh tân 1875 - 1925

Sau khi chiếm được Sài Gòn và Nam kỳ làm thuộc địa, người Pháp nhanh chóng thiết lập và củng cố hệ thống hành chính, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát huy thương mại ở mảnh đất phì nhiêu và thuận lợi cho giao thông kinh tế, nằm giữa đường hàng hải nối Singapore và Đông Á (Hong Kong, Trung Hoa và Nhật Bản). Theo sắc lệnh ngày 4 tháng 4 năm 1867, đề đốc de la Grandière thiết lập một Ủy ban thành phố gồm một ủy viên thành phố và 12 nghị viên. Nhiệm vụ của Ủy ban thành phố này cũng giống như Hội đồng Thành phố sau này (12). Đến năm 1869, đề đốc Ohier muốn dân thành phố có tiếng nói nên ra sắc lệnh ngày 8/7/1869 với tên chính thức là Hội đồng Thành phố và 13 nghị viên trong đó 7 là do dân bầu và 6 do Thống đốc chỉ định, ông Turc, y sĩ hải quân, là thị trưởng đầu tiên.

Từ chỗ đứng này trên bán đảo Đông Dương, với Sài Gòn là thủ phủ, chính quyền Pháp bắt đầu để ý đến Cam Bốt và vùng sông Mê Kông với mục đích làm chủ sông Mê Kông từ hạ nguồn lên đến thượng nguồn để đi đến thị trường Trung Hoa rộng lớn, giấc mơ của bao nhiêu công ty, nhà thương mại của các nước Tây phương.

Thực hiện mục đích này, các đời Thống đốc Nam kỳ trong giai đoạn đầu đã làm áp lực chính trị và ngoại giao tạo ảnh hưởng đến vương quốc Cam Bốt. Pháp đã thành công lập được sự bảo hộ ở Cam Bốt vào năm 1863 (chỉ vài năm sau khi làm chủ Sài Gòn) chủ yếu là do triều đình Cam Bốt bị nước Xiêm (Thái Lan) hùng mạnh đe dọa và dễ dàng muốn chịu ảnh hưởng của Pháp để thoát khỏi sự lấn dần của Xiêm.

Với Cam Bốt nằm trong vùng ảnh hưởng của chính quyền Pháp ở Sài Gòn, họ đã gởi các đoàn thám hiểm từ Sài Gòn đi ngược dòng sông Mê Kông lên Cam Bốt và Lào để cố gắng thiết lập đường giao thông đến Vân Nam, Nam Trung Hoa. Đoàn thám hiểm đầu tiên là Doudard de Lagrée lên Cam Bốt, và đã tìm lại được khu đền Angkor với những bức ảnh đầu tiên chụp tại đây. Đường đi lên Lào để đến Vân Nam đầy khó khăn vì quá nhiều ghềnh thác, nhiều người trong đoàn đã mất vì bệnh và đuối sức và chỉ một vài người (trong đó có viên sĩ quan trẻ Francis Garnier) chông gai đến được Vân Nam và trở về Sài Gòn qua đường biển.

Với ước mơ đường giao thông từ Sài Gòn lên Vân Nam biến mất, ở Sài Gòn người Pháp bắt đầu để ý đến miền Bắc Việt Nam kế cận Vân Nam và Nam Trung Hoa. Từ đây đến Vân Nam khả thi và dễ dàng hơn. Với ý nghĩ này, Pháp bắt đầu tìm cách gây hấn với triều đình Huế và tạo dịp để có chân ở Bắc bộ. Từ Sài Gòn, năm 1873 Pháp đã gởi một đội quân do trung úy hải quân Francis Garnier chỉ huy đi tàu đến Hà Nội lấy cớ bảo vệ thương gia Pháp Jean Dupuis đang có xích mích tại đây với chính quyền Việt Nam của triều đình Huế. Quân Garnier gây hấn đánh chiếm thành Hà Nội, nhưng sau khi Garnier bị tử trận, chính quyền Pháp ở Sài Gòn cùng triều đình ký hòa ước 1874. 

Không lâu sau đó Pháp trở lại Bắc kỳ đánh chiếm Hà Nội và các tỉnh, chiến tranh lan rộng cho đến khi Pháp đánh chiếm cửa Thuận An gần kinh đô Huế. Mặc dầu vậy chiến dịch Bắc kỳ vẫn tiếp tục giữa quân viễn chinh Pháp và quân triều đình do Hoàng Kế Viêm lãnh đạo cùng với quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc dưới sự hỗ trợ của nhà Thanh cho đến khi chiến tranh Pháp - Thanh chính thức xảy ra (1884 - 1885). Chỉ sau khi chiến tranh Pháp - Thanh chấm dứt với hòa ước Thiên Tân (1885) thì Trung Hoa mới từ bỏ sự bảo hộ của họ từ nhiều thế kỷ trước và chấp nhận sự bảo hộ của Pháp ở Việt Nam. Hòa ước Patenôtre 1884 nối tiếp hòa ước Harmand 1883 đặt Việt Nam hoàn toàn dưới sự đô hộ của Pháp với Nam kỳ là thuộc địa và Bắc kỳ, Trung kỳ là các xứ bảo hộ giống như Cam Bốt.

Cuộc khởi nghĩa chống Pháp và tay sai lớn nhất trong giai đoạn Pháp đặt nền bảo hộ lên Bắc kỳ và Trung kỳ là cuộc khởi nghĩa của người dân 18 thôn vườn trầu ở Hóc Môn – Bà Điểm xảy ra vào năm 1885. Lợi dụng quyền thế của mình và được Pháp tin cậy, đốc phủ sứ Trần Tử Ca đã tham ô, áp bức dân lành, tước đoạt tài sản, đất đai người dân là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự khởi nghĩa của người dân ở Sài Gòn - Chợ Lớn và ngoại thành. Đây cũng là khởi đầu của sự tham gia các tổ chức hội kín Thiên Địa hội và tôn giáo mà 20 năm sau đã bộc phát với sự khởi nghĩa của Phan Xích Long.

Sự thiết lập đường dây thép nối Sài Gòn, các tỉnh ở Nam kỳ và Cam Bốt sau đó được lan ra Trung kỳ và Bắc kỳ cuối cùng đến Lào là công trình thiết lập cơ sở hạ tầng rất quan trọng cho thực dân Pháp để thông tin liên lạc từ trung ương đến các địa phương trong mọi công việc từ hành chính, ngoại giao đến kinh tế và quân sự. Không có hệ thống truyền tin nhanh chóng này, thực dân Pháp không thể quản lý và điều hành trên một lãnh thổ rộng lớn của Đông Dương với địa hình đa dạng và khó khăn đi lại.

Chuyển tiếp từ giai đoạn chiếm đóng của thời các Thống đốc đề đốc hải quân đến giai đoạn củng cố và xây dựng cơ sở hạ tầng và hành chính bắt đầu với sự bổ nhiệm Thống đốc dân sự đầu tiên Le Myre de Vilers (1879 - 1882). Ông Le Myre de Vilers đã thiết lập trong thời gian ngắn làm Thống đốc các công trình xây cất cơ sở hạ tầng dân sự quan trọng từ các công sở đến đường bộ, đường thủy, đường sắt. Ở Sài Gòn, cơ sở hạ tầng cung cấp nước, cơ sở y tế và nghiên cứu khoa học như Viện Pasteur được thành lập và phát triển. Đặc biệt là xây dựng cơ sở hạ tầng cung cấp nước cho một thành phố hiện đại ngày càng phát triển. Cung cấp nguồn nước sạch là điều kiện tiên quyết cho an toàn y tế công cộng mà trước đó các cơn bệnh dịch tả truyền nhiễm đã làm tử vong rất nhiều người Pháp, Việt, Hoa. Về phương diện kinh tế, Nam kỳ vẫn tùy thuộc vào sản xuất và xuất cảng lúa gạo mà các tỉnh miền Tây là chủ lực. Hệ thống giao thông qua sông và kinh rạch nối các tỉnh với Sài Gòn và Chợ Lớn là huyết mạch ở nơi này. Các kinh rạch được đào và các vùng đất mới thênh thang được mở mang với các lưu dân vào lập nghiệp. Nhưng điều này cũng dẫn đến những vụ tham nhũng chiếm đoạt đất của nông dân đến định cư của các quan lại, viên chức địa phương. Vấn đề đất đai và chiếm đất đã đưa đến vụ nổi dậy của người dân ở làng Ninh Thạnh Lợi (Rạch Giá) năm 1927 và vụ án ở làng Phong Thạnh (Bạc Liêu) năm 1928 còn được gọi là vụ án đồng Nọc Nạng.

Về phương diện hành chính và đại diện dân cử, ông Le Myre de Vilers thành lập Hội đồng Quản hạt (Conseil colonial) qua nghị định ngày 8/2/1880, và các Hội đồng hạt (Conseils d’arrondissement, Hội đồng quận ở địa phương) ngày 15/5/1882. Ở cấp thành phố, ông cải tổ Hội đồng Thành phố Sài Gòn và thành lập thêm Hội đồng Thành phố Chợ Lớn. Luật ban hành ngày 28/7/1881 theo đó Nam kỳ có một đại biểu ở quốc hội Pháp. Ông cũng bãi bỏ hệ thống lao động cưỡng bách (corvée) ở khắp Nam kỳ cho những người không đóng thuế thân mà ông cho là không có lợi về kinh tế và chính trị.

Qua thế kỷ XX, ở Sài Gòn, sự thành lập chợ mới Bến Thành thay thế chợ cũ biểu hiện cho sự phát triển đô thị với chợ mới Bến Thành trở thành trung tâm mua bán đủ loại các hàng hóa Tây, ta sau đó được truyền bá đi đến lục tỉnh qua mạng giao thông đường bộ và đường xe lửa thay thế giao thông truyền thống đường thủy theo kinh rạch. Người Việt nhận thấy sự cần thiết canh tân xã hội và tư tưởng, trong đó sự phát triển dân trí và kinh tế tự lực là tiền đề để giành lại độc lập. Phong trào Minh Tân do các trí thức đứng đầu là Gilbert Trần Chánh Chiếu khởi xướng mà trọng tâm là tự lực và phát triển công nghệ, thương mại của người Việt cạnh tranh với người Hoa, Pháp và Ấn để có sức mạnh kinh tế và tiếng nói trong lĩnh vực chính trị. Mặc dầu không tồn tại lâu nhưng phong trào Minh Tân đã tạo nên ý thức trong quần chúng về nhận thức của sự cần thiết phải canh tân theo tân học nhất là sau cuộc biến động của hội kín Phan Xích Long - Thiên Địa hội mang nhiều tính chất tôn giáo huyền thoại thu hút đông đảo người dân tương tự như cuộc khởi nghĩa của nông dân ở Bắc kỳ tin theo thần trí của Kỳ Đồng.

Sự thành lập của Viện Hải Dương học ở Nha Trang năm 1930 (tiền thân là “Service des Pêche de l’Indochine” thành lập năm 1922) với nhiều nhà khoa học khảo cứu về sinh học, tài nguyên biển, sông ngòi và hồ ở Đông Dương dùng các phương tiện hiện đại như tàu nghiên cứu de Lanessan đã cho ta nhiều công trình nghiên cứu giá trị đặc thù của Biển Đông và sông nước ở Đông Dương. Đặc biệt là các chuyến khảo sát quần đảo Hoàng Sa và các công bố khoa học liên quan đến quần đảo này trong thập niên 1920 và 1930. Đây cũng là giai đoạn mà người Pháp chú ý đến vấn đề chủ quyền biển đảo ở Hoàng Sa sau khi xác định được chủ quyền lịch sử của Việt Nam qua triều đình Huế từ thời Gia Long. Xây dựng hải đăng trên đảo Pattle (Hoàng Sa) cho tàu bè các nước đi lại là một trong các hệ quả của sự xác định chủ quyền và đem quân đến chiếm đóng vào lúc chiến tranh Trung - Nhật diễn ra, trước sự đe dọa của Nhật lúc tình hình quốc tế ở Thái Bình Dương căng thẳng là những động tác thiết thực có tính cách chiến lược về chủ quyền. 

Về phương diện văn hóa, sự hình thành và phát triển cải lương qua sự kết hợp của hát bội, đờn ca tài tử và ảnh hưởng sân khấu kịch Tây phương là sự kiện nổi bật của sân khấu nghệ thuật trong giai đoạn 1910 - 1925. Sự phát triển của báo chí và văn học quốc ngữ được thuận lợi qua sự hình thành của các nhà in, nhà xuất bản người Việt từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Văn học chữ quốc ngữ ở Sài Gòn và Nam kỳ từ cuối thế kỷ XIX cho đến thập niên 1920 mở đầu cho nền văn học hiện đại Việt Nam với nhiều tác phẩm phản ảnh sự thay đổi trong đời sống kinh tế, văn hóa và xã hội của người Việt trong giai đoạn canh tân. 

Về phương diện chính trị, hoạt động của người Việt chỉ giới hạn trong các Hội đồng Quản hạt, Hội đồng Thành phố và Hội đồng hạt ở các tỉnh nơi mà đa số các đại biểu hay nghị viên là thân Pháp. Sự thành lập của Đảng Lập Hiến do ông Bùi Quang Chiêu và các nhà trí thức Tây học, điền chủ, nghiệp chủ giàu có thành lâp. Sự tham gia chính trị của Đảng Lập Hiến tranh đấu cho quyền lợi người bản xứ thuộc giai cấp trung lưu và khá giả đánh dấu giai đoạn hợp tác ôn hòa với hy vọng quyền lợi người Việt được bảo vệ và sẽ có sự tự trị hay độc lập trong tương lai qua các cải tổ. Nhưng điều này đã không xảy ra như Đảng Lập Hiến mong mỏi và vì thế họ đã dần mất tín nhiệm dưới mắt người Việt. 

Sự mất tín nhiệm của Đảng Lập Hiến với chính sách “Pháp - Việt đề huề” sau nhiều năm đại diện người Việt ở lục tỉnh trong Hội đồng Quản hạt và Hội đồng Thành phố đã dẫn tới sự thành lập các phong trào, tổ chức đảng phải theo cộng sản đệ tứ và đệ tam tranh đấu giành độc lập từ năm 1925 đến 1945. Giai đoạn tranh đấu giành độc lập thoát khỏi thời Pháp thuộc là giai đoạn oai hùng bất khuất của dân tộc Việt trong lịch sử cận đại mà chúng tôi sẽ triển khai trong quyển sách nghiên cứu sắp tới.

Trích đoạn:

---  Trích tờ Le Petit Parisien (27/12/1909) cho biết các truyền đơn nổi dậy chống Pháp in ở Nhật đã được phát tán ở Nam Kỳ , và ông Gilbert Chiếu khi làm chủ bút tờ Nông cổ mín đàm đã cài vào báo tờ truyền đơn mà kiểm duyệt Pháp không biết nội dung do sự thiếu hiểu biết của quan chức Pháp. Tờ truyền đơn kêu gọi nổi dậy dược dịch ra tiếng Pháp như sau:

"Chúng ta là những người chủ đương nhiên của đất nước, nếu không giữ được đất nước, chúng ta sẽ không thể hưởng được quyền sở hữu ấy.

Hãy xem nước Phổ và Hoa Kỳ, họ cũng có những khó khăn, thất bại, nhưng họ đã phục hưng, canh tân lại đất nước bằng cách từ bỏ những thói quen của mình.

Trong lúc giải trí, tôi đọc sách lịch sử và nhận thấy người Nhật đã hoàn toàn thành công trong công cuộc cải cách của mình.

Bằng cách kết hợp tất cả các nỗ lực, họ đã tạo ra cho mình một chỗ đứng xứng đáng trên thế giới". ---

name

Kiến trúc đô thị và cảnh quan Sài Gòn - Chợ Lớn xưa và nay

Tác giả: Nguyễn Đức Hiệp – Tim Doling – Võ Chi Mai

Lời nói đầu:

Cuốn sách này ra mắt bạn đọc là do sự hợp tác của các tác giả Nguyễn Đức Hiệp, Tim Doling và Võ Chi Mai với mục đích giới thiệu về hình ảnh, thông tin về cảnh quan, đường phố đô thị Sài Gòn - Chợ Lớn từ thế kỷ 19 cho đến nay là Thành phố Hồ Chí Minh.

Các tác giả xuất thân từ những chuyên môn khác nhau như khoa học tự nhiên, xã hội và nghệ thuật vì thế góc nhìn là sự tổng hợp của các khía cạnh trên. Một thành phố có sức thu hút quyến rũ du khách và người dân không chỉ ở sức mạnh kinh tế, bề dày lịch sử của nó mà còn do cá tính nhân văn của cư dân và cảnh quan gây những ấn tượng, cảm hứng nghệ thuật cho cộng đồng và các sáng tác văn hóa nghệ thuật đa dạng của những nghệ sĩ. Mà cảnh quan đặc thù đó phát sinh và duy trì chính từ tư duy của con người và phản ảnh phong cách và triết lý sống của cư dân nơi đó. Một thành phố lớn có tầm vóc thu hút đều có các đặc tính trên và những người nhập cư cũng làm phong phú thêm đời sống kinh tế, xã hội và văn hóa của thành phố mà họ được nuôi dưỡng đã bộc lộ được tài năng của họ. Một sự hỗ tương có lợi cho cá nhân và cộng đồng. Sự thanh lịch nhân văn đó cần được bảo trì và phát huy trong một hệ sinh thái năng động hữu cơ.

Chúng tôi hy vọng cuốn sách này sẽ giúp bạn đọc khám phá thêm vài khía cạnh văn hóa xã hội, cảnh quan và kiến trúc của thành phốSài Gòn - Chợ Lớn xưa và Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay. Tất nhiên, tập sách vẫn không thể tránh khỏi những thiếu sót vì đề tài này vốn dĩ rất phong phú, đa dạng. Chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu, bổ sung để giới thiệu cùng bạn đọc.

Nguyễn Đức Hiệp

Tim Doling

Võ Chi Mai

 

Giới thiệu:

Thành phố Hồ Chí Minh mà trước đây được gọi là Sài Gòn, dưới thời Pháp thuộc là thủ phủ của Nam kỳ lục tỉnh đã được luật sư Jules Blancsubé (1834-1888), thị trưởng Sài Gòn, khi ông qua Pháp một thời gian làm đại biểu Nam kỳ ở quốc hội Pháp, là người đầu tiên tuyên bố trong nhiều dịp khi nói về thành phố Sài Gòn, nơi ông sinh sống từ năm 1864 là “La Perle de l’Extrême-Orient” (Hòn ngọc Viễn Đông). Từ đó, thành phố được mệnh danh là “Hòn ngọc Viễn Đông” này đã cám dỗ nhiều nhà du hành vào cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20.

Những người Anh khi ghé qua Sài Gòn từ Hồng Kông hay Singapore đều ghi trong ký sự và sách du hành đây là thành phố có thiết kế, cảnh quan và kiến trúc Á - Âu đẹp hơn so với hai thành phố Singapore và Hồng Kông. Ngày nay, Thành phố Hồ Chí Minh cũng thu hút nhiều du khách nước ngoài đến thăm vì thành phố này bên cạnh sự hiện đại vẫn còn những nét đặc thù riêng của nó mà không phải chỉ Hội An hay Hà Nội mới có.

Vùng đất Sài Gòn - Chợ Lớn ngày nay có lịch sử lâu đời. Được tạo thành do phù sa sông Đồng Nai và sông Sài Gòn từ thời kỳ địa chất Pleistocene (từ 2 triệu năm đến 13.000 năm trước đây). Con người đã có mặt ở lưu vực sông Sài Gòn - Đồng Nai - Cửu Long cách nay hơn 40.000 năm trên đường thiên di từ Phi châu đến Đông Á và Úc châu. Thổ dân lâu đời nhất sống trong vùng là người Mạ.

Lưu dân người Việt bắt đầu từ thế kỷ 17 và người Hoa (quân sĩ nhà Minh bỏ Nam Trung Quốc ra đi về phương Nam) trước đó được chúa Nguyễn cho phép định cư vào giữa thế kỷ 17, khởi đầu sự hình thành của Sài Gòn - Chợ Lớn. Khi Nguyễn Ánh lấy lại thành Gia Định từ quân Tây Sơn năm 1788 thì nơi đây trở thành thành trì của nhà Nguyễn. Năm 1790, thành Sài Gòn được củng cố và xây kiên cố với kỹ thuật phòng thủ Vauban (thành Quy), trong thành xây các cung điện cho chúa Nguyễn.

“Ngày Kỷ Sửu, đắp thành đất Gia Định. Vua thấy thành cũ ở thôn Tân Khai chật hẹp, bàn mở rộng thêm. Dụ rằng: “Vương công giữ nước, tất phải đặt nơi hiểm yếu trước. Nay đất Gia Định mới thu phục, cần sửa thành trì cho bền vững để chỗ ở được vững mạnh”. Bấy giờ mới huy động quân dân để khởi đắp, hẹn trong mười ngày đắp xong. Thành đắp theo kiểu bát quái, mở tám cửa, ở giữa là cung điện, bên tả dựng nhà Thái miếu, phía sau miếu là kho tàng, bên hữu đặt cục Chế tạo, chung quanh là nhà tranh cho quân túc vệ ở. Giữa sân dựng kỳ đài ba tầng, trên làm tòa vọng đẩu bát giác, ban ngày kéo cờ, ban đêm thì kéo đèn làm hiệu lệnh cho các quân. Thành xong, gọi tên là Kinh thành Gia Định...”.

(Nguồn: Mộc bản triều Nguyễn)

Quyển sách này có mục đích trình bày những hình ảnh của các kiến trúc và cảnh quan đô thị theo tác giả là có giá trị về mỹ quan, văn hóa và lịch sử ở Sài Gòn - Chợ Lớn. Ngoài ra còn có một số hình ảnh xưa và nay ở cùng địa điểm để ta có thể thấy sự thay đổi qua thời gian các cảnh quan, kiến trúc cùng với các sự kiện, thông tin về lịch sử và các câu chuyện liên quan tạo nên dấu ấn ký ức đô thị và đặc thù của thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn.

Sài Gòn không phải chỉ là thành phố kinh tế mà còn là trung tâm sinh hoạt văn hóa và chính trị của cả Nam bộ có ảnh hưởng từ nhiều vùng khắp đất nước. Đến thập niên 1930 và1940, Sài Gòn đãtrở thành thành phố quy tụ đủ sức mạnh kinh tế và tinh thần tri thức để sánh vai với các thành phố lớn ở Đông Nam Á và các nước khác.

Ngày nay Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố hiện đại nhưng vẫn còn giữ một phần nét đặc thù của mình và các di sản văn hóa lịch sử của nhiều thời kỳ trong suốt quá trình từ lúc thành lập cho đến ngày nay. Nơi đây đã và sẽ tiếp tục thu hút nhiều du khách đến thăm nếu chúng ta vẫn bảo tồn được các di sản kiến trúc văn hóa, cảnh quan đặc thù của thành phố “lịch sử” như ông Paul Beau cách đây hơn một thế kỷ đã từng gọi.

name

Hướng Dẫn Ôn Thi Tốt Nghiệp Trung Học Phổ Thông - Môn Vật Lí (Theo Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông 2018)

Tài liệu Hướng dẫn ôn thi tốt nghiệp Trung học phổ thông môn Vật lí được biên soạn nhằm hỗ trợ cho học sinh trong quá trình ôn thi tốt nghiệp Trung học phổ thông môn Vật lí theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Nội dung của sách đáp ứng những yêu cầu cần đạt của Chương trình tổng thể và chương trình môn Vật lí cấp Trung học phổ thông, bám sát theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo về tổ chức Kì thi tốt nghiệp Trung học phổ thông theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018 và Quyết định số 764/ QĐ-BGDĐT ngày 08 tháng 3 năm 2024 của Bộ Giáo dục và Đào tạo Quy định về cấu trúc định dạng đề thi Kì thi tốt nghiệp Trung học phổ thông từ năm 2025.

Cấu trúc của sách gồm các phần chính sau:

Phần một. Ôn tập theo chủ đề: bao gồm kiến thức trọng tâm, các câu hỏi ôn tập của từng chủ đề nhằm giúp học sinh củng cố kiến thức, làm quen với các dạng câu hỏi theo cấu trúc đề thi tốt nghiệp Trung học phổ thông từ năm 2025.

Phần hai. Đề ôn luyện: bao gồm 08 để ôn luyện được biên soạn bám sát theo cấu trúc quy định trong Quyết định số 764/QĐ-BGDĐT ngày 08 tháng 3 năm 2024 của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Phần ba. Đáp án – Hướng dẫn giải: gồm đáp án và hướng dẫn giải một số câu hỏi trong từng chủ đề và các đề ôn luyện nhằm giúp học sinh có thể tự học, tự so sánh kết quả bài làm của mình.

Với cấu trúc như trên, các tác giả hi vọng quyển sách sẽ là người bạn đồng hành đáng tin cậy cho các em học sinh trong quá trình ôn luyện để chuẩn bị bước vào Kì thi tốt nghiệp Trung học phổ thông môn Vật lí theo Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018.

Chúc các em học tập hiệu quả và có một kì thi thành công!

1
Logo
  • Giới Thiệu
  • Liên Hệ
  • Chính Sách

Tại Kho Sách, chúng tôi tạo ra một không gian dành riêng cho những đam mê đọc sách, từ những người đam mê văn học đến những người muốn khám phá thế giới qua trang sách.

Theo Dõi